Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Việc vận dụng các quy định pháp lý của Liên minh Châu Âu EU về chất lượng và nhãn hiệu sản phẩm trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này” - Pdf 99



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Việc vận dụng các quy định pháp lý
của Liên minh Châu Âu EU về chất
lượng và nhãn hiệu sản phẩm trong
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào
thị trường này
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

1
LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỉ 21 là thế kỉ của kinh tế tri thức, với xu hướng khu vực hoá và toàn
cầu hoá đang đặt ra cho các hoạt động thương mại quốc tế những cơ hội mới.
Chính vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu là phương hướng chiến lược được Đại hội
Đảng IX xác định và chỉ đạo thực hiện theo tinh thần : “Việt Nam sẵn sàng làm
bạn, làm
đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hoà bình độc lập dân tộc và phát triển”. Để thực hiện chiến lược và định

đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nó hạn chế kh
ả năng thâm nhập
và chiếm lĩnh thị trường. Việc nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề pháp lý và
thực tiễn vận dụng của Việt Nam khi thâm nhập thị trường này là điều hết sức
quan trọng.
Chính vì những lý do như vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Việc vận dụng các
quy định pháp lý của Liên minh Châu Âu EU về chất lượng và nhãn hiệu
sản phẩm trong xuất khẩu hàng hoá của Vi
ệt Nam vào thị trường này” để
viết Khoá luận tốt nghiệp nhằm đi sâu tìm hiểu về thị trường EU và các yêu cầu
của thị trường EU đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam cũng như việc vận
dụng các quy định pháp lý của EU của các doanh nghiệp Việt Nam. Để hoàn
thành Khoá luận tốt nghiệp, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
trên cơ sở nhữ
ng thông tin thu thập được cùng các phương pháp thốngkê, so
sánh để nghiên cứu những yêu cầu mà đề tài đặt ra. Do thời gian nghiên cứu
không dài và việc thu thập tài liệu còn gặp nhiều hạn chế nên Khoá Luận Tốt
Nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên để Khoá Luận được hoàn thiện
hơn
Những nội dung của Khoá luận được trình bày trong 3 chương sau:
Chương 1: Tổng quan về Liên Minh Châu Âu và các quy
định quy định
về chất lượng - nhãn hiệu sản phẩm xuất khẩu vào thị trường này
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

3
Chương 2: Thực tiễn vận dụng các quy định pháp lý về chất lượng và
nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị
trường EU

LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ
CHẤT LƯỢNG - NHÃN HIỆU SẢN PHẨM XUẤT KHẨU VÀO THỊ
TRƯỜNG NÀY
1.1 KHÁI QUÁT VỀ LIÊN MINH CHÂU ÂU
1.1.1 Tổng quan về liên minh Châu Âu
Liên minh Châu Âu là một tổ chức liên kết kinh tế khu vực lớn nhất, thành
công nhất trên thế giới và được coi là sự mẫu mực của xu thế hợp tác kinh tế
quốc tế. Một tổ chức thực hiện có kết qu
ả quá trình hợp nhất về kinh tế giữa các
quốc gia độc lập về chính trị theo thiết chế thị trường thống nhất và chặt chẽ.
Hiện nay cùng với Mỹ, Nhật Bản Liên minh Châu Âu đang là một trong ba
trung tâm kinh tế hùng mạnh trên thế giới.
Để có được những thành tựu như ngày nay, EU đã phải trải qua một thời
gian dài hình thành và phát triển với những bước thăng trầm của nó, đặc biệ
t là
cả quá trình nghiên cứu và những nỗ lực to lớn của các nước thành viên trong
liên kết kinh tế.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, một mặt, trước yêu cầu cấp thiết
phải khôi phục và phát triển nền kinh tế bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, các
nước Tây Âu nhận thấy cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các nước Tây
Âu với nhau để xây dựng và ngăn chặn chi
ến tranh sau này có thể nổ ra giữa các
nước Châu Âu, đặc biệt là phải đổi mới kinh tế, lấy sự hợp tác về sản xuất thay
cho sự đối địch về kinh tế. Mặt khác, quá trình khách quan xuất phát từ đòi hỏi
phát triển của lực lượng sản xuất do đời sống kinh tế quốc tế hoá ngày càng rộng
rãi cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đã
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

5

Paris, sáu nước Châu Âu đã ký hiệp ước thành lập Cộng đồng Than và Thép
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

6
Châu Âu (ECSC) mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ giữa các nước
Tây Âu. Những thành tựu về kinh tế và chính trị mà ECSC mang lại đã dẫn đến
việc ngày 25/3/1957, tại Rome sáu nước thành viên đã cùng nhau kí kết hiệp
ước thiết lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) và cộng đồng năng lượng
nguyên tử Châu Âu (EURATOM) với nhiệm vụ đẩy mạnh sáng tạo phát triển
công nghiệp nguyên tử, đảm bảo cung cấp nguyên liêu và bảo v
ệ môi trường,
đảm bảo sự hoà nhập kinh tế, tiến tới một thị trường thống nhất tạo ra sự tự do
lưu thông hàng hoá và nguồn nhân lực trong toàn khối. Năm 1967 các tổ chức
trên hợp nhất thành một tổ chức chung có tên là Cộng đồng Châu Âu (EC). Trên
cơ sở những kết quả đã đạt được cả về mặt kinh tế cũng như chính trị, ngày
1/1/1973 EC “mở cửa” đ
ón ba thành viên mới: Anh, Ailen và Đan Mạch. Sau
lần “mở cửa” thứ nhất, với việc gia nhập của các nước Tây Bắc Âu, Cộng đồng
Châu Âu mở cửa lần thứ hai đón thêm ba nước Nam Âu: Hy Lạp (1981), Tây
Ban Nha (1986) và Bồ Đào Nha (1986). Nhờ những thành công đã đạt được trên
phương diện kinh tế và chính trị, Cộng đồng kinh tế Châu Âu tiếp tục mở rộng
các quá trình liên kết rộng rãi giữa các nước và các dân tộc. Đỉnh cao nhữ
ng nỗ
lực của quá trình thống nhất Châu Âu được thể hiện qua cuộc họp thượng đỉnh
các nước thuộc cộng đồng kinh tế Châu Âu tổ chức tại Maastricht (Hà Lan)
tháng 12 năm 1991. Hội nghị đã thông qua hiệp ước Maastricht với những nội
dung sau: xây dựng ngôi nhà chung Châu Âu, thành lập liên minh kinh tế tiền tệ
(EMU) và liên minh chính trị (EPU). Ngày1/1/1993, hiệp ước Maastricht chính
thức có hiệu lực. EC gồm 12 nước trở thành Liên Minh Châu Âu (EU). Cho đến
nay, EU gồm 15 nước thành viên, trong đ

37% lên 50% tồng xuất khẩu của cộng đồng, còn tỷ lệ nhập khẩu tăng từ 30%
lên 47%. Tuy nhiên trong một thời gian dài tiếp sau đó tiến trình xây dựng thị
trườ
ng chung bị chậm lại do các nước trong cộng đồng rơi vào cuộc khủng
hoảng dầu lửa năm 1973 và sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods. Các
nước quá lo lắng giải quyết vấn đề của riêng mình nên không còn thực sự quan
tâm đến việc xây dựng thị trường chung nữa.
Phải đến giữa những năm 80, trước sự suy yếu của kinh tế thế giới, các
nước trong cộng đồng buộc phải xem xét lại các hoạt động liên kết kinh tế của
mình nhằm tìm cách khai thông tình trạng trì trệ và đem lại cho tiến trình nhất
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

8
thể hoá kinh tế một đà phát triển mới. Các nước này lại thấy được sự cần thiết
phải có nỗ lực mới để nhanh chóng hoàn tất việc xây dựng thị trường chung EU.
Tháng 07/1987, việc ký kết Định ước Châu Âu thống nhất, tiến trình xây dựng
thị trường chung đã tiến thêm một bước quan trọng. Qua Định ước này các nước
trong cộng đồng đã nhấn mạnh đến việc xoá b
ỏ các đường biên giới nội bộ, tạo
thị trường chung cho sự lưu thông hàng hoá, lao động dịch vụ và vốn. Ngày
01/01/1993, sau bảy năm tích cực chuẩn bị, toàn thể cộng đồng Châu Âu chính
thức trở thành một thị trường chung được giải phóng khỏi các đường biên giới
nội bộ.
Một bước phát triển tất yếu trong tiến trình dẫn tới thị trường chung là việc
thống nhất các nướ
c trong EU ở lĩnh vực tiền tệ. Nội dung chính ở đây là xây
dựng một liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu (EMU) và đồng tiền chung Châu
Âu (EURO). Các hoạt động đáng kể trên góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các
nước phát triển đồng đều, tăng sức cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác.
Tuy nhiên để được tham gia vào Liên minh kinh tế tiền tệ, các nước trong khối

một thị trường rộng lớn khoảng 390 triệu người. EU là thị trường có nhiều thành
viên mặc dầu vậy đây vẫn là thị trường thống nhất trên nhiều khía cạ
nh.
Ngay từ cuối những năm 60 của thế kỷ 20, EU đã là thị trường có hệ thống
hải quan thống nhất trong cả khối với định mức chung ở các nước thành viên.
Từ khi hiệp định Maastricht có hiệu lực (01/01/1993), EU thành thị trường
chung thống nhất huỷ bỏ đường biên giới nội bộ trong liên minh (biên giới lãnh
thổ quốc gia và biên giới hải quan). Ngoài một thể chế thống nhất, liên minh còn
có c
ơ chế thống nhất trong việc ra quyết định và thực hiện trong phạm vi cộng
đồng. Những quyết định của cộng đồng phải được tuân thủ nghiêm túc ở mỗi
quốc gia thành viên. Điều này đựơc thể hiện trong nguyên tắc “Luật cộng đồng
luôn cao hơn luật quốc gia”.
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

10
Gắn liền với sự ra đời của thị trường chung Châu Âu là một chính sách
thương mại chung. Nó điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hoá
dịch vụ trong nội bộ khối. EU ngày nay được xem như một đại quốc gia ở Châu
Âu. Bởi vậy chính sách thương mại chung của EU cũng giống như chính sách
thương mại của một quốc gia. Nó bao gồm chính sách thương mại nội kh
ối và
chính sách ngoại thương. Chính sách thương mại nội bộ khối tập trung vào việc
xây dựng và vận hành thị trường chung Châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát
biên giới lãnh thổ quốc gia và hải quan (xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi
quan thuế) để tự do lưu thông hàng hoá sức lao động, dịch vụ và vốn đồng thời
điều hoà các chính sách kinh tế và xã hội của các nước thành viên. Tất cả các
nước thành viên EU đều áp dụng một chính sách ngoại th
ương chung với các
nước ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu (EC) là người đại diện duy nhất cho liên

ưu đãi thuế quan phổ cập mới, hệ thống này sẽ bao gồm 2 nhóm sản phẩm của
các nước đang phát triển đượ
c hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU thay vì 4
nhóm sản phẩm như đang áp dụng hiện nay, đó là sản phẩm nhạy cảm và sản
phẩm không nhạy cảm. Hàng của các nước đang và chậm phát triển muốn được
hưởng GSP khi nhập khẩu vào EU thì phải tuân thủ các quy định của EU về xuất
xứ hàng hoá và phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A do cơ quan có
thẩm quyền của các nước được hưởng GSP cấp.
Ngoài ra để đảm bảo quyền lợi và an toàn cho người tiêu dùng trong khối,
EU còn ban hành rất nhiều các đạo luật chủ yếu cấm buôn bán các sản phẩm
được sản xuất từ những nước có điều kiện sản xuất chưa đạt mức an toàn ngang
với tiêu chuẩn của EU. Chẳng hạn như đạo luật 91/493/EC của hội đồng EC
“nh
ững điều kiện đối với sức khỏe đối với việc nhập khẩu kinh doanh hàng thuỷ
sản trên thị trường EU”. Theo điều 10 của đạo luật này, các tiêu chuẩn áp dụng
ít nhất là tương đương với những tiêu chuẩn chỉ đạo được áp dụng trên thị
trường nội địa EU. Khái niệm tương đương ở đây được hiểu là, tương đương về
tổ
chức chức năng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra chất lượng sản
phẩm theo tiêu chuẩn HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point- điểm
giới hạn kiểm tra mức nguy hiểm) đối với hàng thực phẩm. EU cũng thông qua
những quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về độ an toàn chung của các
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

12
sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, nhãn hiệu… Các tổ chức
chuyên nghiên cứu đại diện cho người tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định
chuẩn Quốc Gia hoặc Châu Âu. Hiện nay ở Châu Âu có 3 tổ chức định chuẩn:
Uỷ ban Châu Âu về định chuẩn, Uỷ Ban Châu Âu về Định chuẩn điện tử, Viện
Định chuẩn viễn thông Châu Âu. Đặc biệt EU có quy chế về nhãn mác rất khắt

hoá sau:
- Hàng may mặc và giày dép: Người dân Áo, Đức, Hà Lan chỉ mua hàng
may mặc hoặc giày dép không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ (azo-
dyes). Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của hai
loại sản phẩm này. Đối với hàng giày dép, người EU có xu hướng đi giầy vải.
Xu hướng này càng tăng lên tỷ lệ thuận với xu hướng tiêu dùng giày dép tăng
hàng năm của EU.
Đối với mặt hàng này nhu cầu thay đổi nhanh chóng, nhất là
về mẫu mốt.
- Thuỷ hải sản: Người tiêu dùng EU không mua những sản phẩm thuỷ hải
sản bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do các chất phụ gia không
được phép sử dụng. Đối với những sản phẩm thuỷ hải sản qua chế biến, người
Châu Âu chỉ dùng những sản phẩm đóng gói có ghi tên s
ản phẩm, nơi sản xuất,
các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch. Họ tẩy chay các loại thuỷ
sản nhập khẩu có chứa khuẩn Salmonela, độc tố Lustamine, nhiễm
V.Paraheamoliticus, nhiễm V. Cholerea. Người Châu Âu ăn ngày càng nhiều
thuỷ sản vì họ cho rằng sẽ giảm được béo mà vẫn khoẻ mạnh.
EU là một trong những thị trường lớn nhất trên thế giới c
ũng chỉ như thị
trường Mỹ nhưng khác với thị trường Mỹ ở chỗ EU là một cộng đồng kinh tế
mạnh và là một trung tâm văn minh lâu đời của nhân loại, do đó sở thích tiêu
dùng của người dân rất cao sang. Họ có thu nhập có mức sống khá đồng đều,
yêu cầu khắt khe về chất lượng và độ an toàn sản phẩm nói chung còn với thực
phẩm thì chất lượng và vệ sinh là hàng
đầu. Yếu tố quyết định tiêu dùng của
người Châu Âu là chất lượng hàng hoá chứ không phải là giá cả đối với đại đa
số các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Trong khi đó Mỹ là một xã
hội đa văn hoá, đa dân tộc nên sở thích tiêu dùng của người Mỹ rất đa dạng về
chủng loại hàng hoá và đòi hỏi về chất lượng không khắt khe như thị trườ

lao động được tự do lưu thông giữa 15 nước thành viên và đến nay đã lưu hành
đồng tiền chung Euro trong 12 trên 15 nước thành viên. Tuy nhiên dù không có
rào cản giữa các quốc gia thành viên, các quốc gia mở cửa cho các quốc gia
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

15
thành viên khác, các nền kinh tế thống nhất và hệ thống quy định, luật pháp hoà
hợp, tuy nhiên tính chất thị trường của các nước có những điểm khác biệt đáng
kể do sự khác biệt về dân số, diện tích tôn giáo, phong tục tập quán,văn hoá-xã
hội, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, hệ thống kinh tế chính trị
khác nhau. Mỗi quốc gia đều có nguồn gốc dân tộc cơ bản có những giá trị
truyền thống và những đặc trưng văn hoá của riêng mình. Điều đó đã tạo nên
những nét riêng biệt trong tính cách và thị hiếu tiêu dùng EU. Vì vậy, chúng ta
phải chú ý đến yếu tố này khi làm ăn buôn bán với từng nước trong khu vực này.
Để thiết lập được mối quan hệ với các thương nhân EU cần lưu ý một số
tính cách cá biệt: với thương nhân Anh mặc dù có sự quen biết lâu nhưng việc
chọn bạ
n hàng rất chậm chạp theo kiểu “phớt ăng lê”, ngược lại với các thương
nhân Đức, Tây Ban Nha thì ngay ở lần tiếp xúc đầu tiên cũng có thể thiết lập các
mối quan hệ buôn bán. Tuy nhiên với thương nhân Đức thì phải cung cấp cho họ
đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp, về sản phẩm mà họ yêu cầu để họ nghiên
cứu động thái phát triển của doanh nghiệp một vài năm, còn đối với thương
nhân Tây Ban Nha ch
ỉ cần đưa mẫu hàng và nội dung giao dịch là có thể bàn
việc buôn bán. Doanh nghiệp Pháp chủ yếu quan tâm đến giá cả và họ thích gán
mác lên hàng hoá theo kiểu Pháp. Doanh nghiệp Đức không chấp nhận mua
hàng theo catalô trong khi các doanh nghiệp Anh lại rất quan tâm đến chất lượng
và sòng phẳng, luôn tuân theo luật lệ một cách chính xác.
Khác với doanh nghiệp Mỹ thường hoạt động một mình, các doanh nghiệp
Đức đi đâu cũng có trợ lý đi cùng. Nếu mời họ đến thăm xí nghi

năm tháng ra đời của doanh nghiệp đối tác và mối quan hệ với các doanh nghiệp
khác trên thị trường quốc tế, coi đó là thước đo tài năng, uy tín của chủ doanh
nghiệp và công ty đối tác. Người Bắc Âu rất thích nói đến chức vụ của mình
trong quá trình đàm phán, thương thuyết. Doanh nhân Đức, Áo, hơi lạnh ít cười
có thể bỏ qua một số nghi thức xã giao thăm hỏ
i mà đi thẳng vào vấn đề, công
việc.
Trong giao dịch quốc tế quan hệ cá nhân có tác dụng khá quan trọng, xuất
phát từ thiện cảm các bạn hàng EU có thể mời đối tác về nhà dự tiệc. Nhưng nên
nhớ: ở Đan Mạch, một nhà buôn được mời đến nhà đồng nghiệp thì nên nhớ
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

17
mang theo hoa tươi hoặc quà tặng; ở Na Uy nếu muốn được đối xử thật tốt thì
ngay hôm bữa tiệc người được mời nên tặng chủ nhà một món quà; ở Pháp trước
hôm nhận lời dự tiệc hay đến thăm cũng phải tặng hoa trước cho người chủ.
Thương nhân Pháp rất thích sau mỗi đợt buôn bán kết hợp tổ chức một cuộc vui
đặc biệt, thậm chí ngay cả trước khi đ
àm phán công việc.
Khi tặng hoa cũng cần chú ý đến ngôn ngữ văn hoá của hoa đối với phong
tục từng nước Châu Âu: ở Anh và Pháp, hoa loa kèn trắng chỉ dùng trong tang
lễ; hoa hồng đỏ thắm rất được ưu chuộng đối với phụ nữ Pháp và Italia nhưng ở
Tây Ban Nha thì ngược lại; ở Pháp hoa màu vàng gợi nên sự không chung thuỷ
và không dùng để tặng hoa ai cả; ở Châu Âu nên tặng hoa bông lẻ và nên tránh
con số 13.
Đối với người tiêu dùng Châu Âu khác với M
ỹ họ rất miễn cưỡng phải sử
dụng bằng thẻ tín dụng, họ cố gắng trả hết tiền sau một thời gian. Thói quen
người tiêu dùng EU đối với một số sản phẩm lưu thông trên thị trường cũng có
phân biệt. Chẳng hạn đối với sản phẩm thuỷ hải sản, những người tiêu dùng ở

triệu USD. Song từ
tháng 7 năm 1979, do vấn đề Campuchia nên EU đã ngừng
viện trợ cho Việt Nam, kể cả khoản viện trợ 36 triệu USD đã được phê chuẩn.
Từ cuối năm 1984, EU bắt đầu nối lại viện trợ nhân đạo cho Việt Nam.
Quan hệ Việt Nam-EU bắt đầu ngay khi nước ta thống nhất hai miền Nam-
Bắc năm 1975, tuy nhiên mãi đến năm 1990 mối quan hệ hợp tác mới mở ra một
trang mới bắ
t đầu bằng Hội nghị Ngoại trưởng 12 nước thành viên Cộng đồng
EC quyết định lập quan hệ ngoại giao với chính thức với Việt Nam cấp đại sứ
ngày 22 tháng 10 năm 1990. Từ đó đến nay các mối quan hệ song phương đã
từng bước phát triển cả về chất và về lượng. Các nước thành viên EU đã tăng
cường hơn nữa quan hệ hợp tác, đầu tư thương m
ại và viện trợ cho Việt Nam.
Tháng 12 năm 1990, đại diện Uỷ ban Châu Âu và Chính phủ Việt Nam đã kí
thoả thuận về chương trình giúp đỡ những người Việt Nam ra đi bất hợp pháp
trở về tái hoà nhập trên nguyên tắc hồi hương tự nguyện với khoản cho vay tín
dụng lên tới 47 triệu USD. Ngoài ra, EU còn giúp đào tạo nghề (mộc, may mặc,
quản lý kinh tế…), cải thiện các vùng nông thôn (làm đường giao thông, cải tạo
môi trườ
ng, trồng rừng, lấn biển…) và phát triển y tế (cấp thuốc, cải tạo bệnh
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

19
viện, đào tạo cán bộ). EU cũng quan tâm đến tăng cường quan hệ kinh tế-thương
mại, biểu hiện cụ thể là hiệp định về buôn bán dệt may ngày 15/12/1992 tại
Brucxen và có hiệu lực 5 năm bắt đầu từ 1/1/1993 đến nay đã qua hai lần gia
hạn và điều chỉnh tăng hạn ngạch. Hiệp định đánh dấu một bước chuyển biến
tích cực trong mối quan hệ gi
ữa hai bên. Đây cũng là tiền đề cho việc kí kết các
hiệp định về hợp tác kinh tế- thương mại, khoa học- kỹ thuật sau này.

(20,7%), Anh (12,7%), Italia (9,6%). Thực tế nhìn một cách tổng quan thì quan
hệ thương mại Việt Nam-EU chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Các
mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU là những mặt hàng mà thị
trường này có nhu cầu nhập khẩu hàng năm với khối lượng lớn là giày dép, hàng
may mặc, hàng nông sản, hàng thuỷ hải s
ản, cao su, than đá. Các mặt hàng này
chiếm từ 72-76% xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang EU tăng trung bình 50%/năm. Có thể nói EU là thị trường xuất
khẩu hàng hoá quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Các mặt hàng nhập khẩu chủ
yếu của Việt Nam từ EU là máy móc thiết bị công nghệ cao như linh kiện điện
tử và máy vi tính, máy móc thiết bị phụ liệu dệt may, da, sắt thép các loại,
phương tiện vận tải như ô tô và phụ tùng ô tô và hoá chất, tân dược. Nhìn chung
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu.
Về tài chính, các nước Pháp, Bỉ, Đức… tích cực xoá nợ, giảm nợ cho Việt
Nam. Pháp tích cực kêu gọi các nước khác cùng với mình giúp Việt Nam trả nợ
quốc tế trong khuôn khổ “Câu lạc bộ Paris”; và giúp nối lại mối quan hệ giữa
Vi
ệt Nam với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế. Đồng thời các nước EU
còn viện trợ phát triển (ODA) với lãi suất ưu đãi đặc biệt cho Việt Nam. Đến hết
năm 1999, EU đã viện trợ cho Việt Nam 2,1 tỉ EURO được tập trung vào 4 lĩnh
vực quan trọng nhất của nền kinh tế: nông nghiệp, phát triển xã hội, y tế và giao
thông. Chương trình viện trợ cho hoạt động đẩy mạnh xuấ
t khẩu của Việt Nam
sang EU rất đa dạng, bao gồm tất cả các lĩnh vực như nghiên cứu thị trường
(nghiên cứu thị hiếu, sản phẩm, hỗ trợ tham gia các hội chợ triển lãm, phổ biến
ngôn ngữ và văn hoá Châu Âu…), phát triển thông tin, cấp tín dụng, cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ chuyên môn như lập kế hoạch, kinh doanh, marketing… Một
số chương trình đặc biệt như đầ
u tư châu Á, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp

Liên minh Châu Âu áp dụng hệ thống quản lý ISO 9000 và hệ thống quản
lý 14000. Đối với tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

22
sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, ở các nước
đang phát triển Châu Á và Việt Nam, hàng của các doanh nghiệp có giấy chứng
nhận chất lượng ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so
với các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. Có thể nói hệ thống quản
lý chất lượng đã trở thành giấy thông hành cho các doanh nghiệp thâm nhập vào
thị trường thế giới nói chung và thị tr
ường không mấy “dễ tính” này nói riêng.
ISO 9000 là hệ thống quản lý chất lượng gồm các quy trình kỹ thuật và
kiểm tra, kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất ra sản phẩm chứ không phải là
một tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm như một số doanh nghiệp và cá nhân lầm
tưởng. ISO là tập hợp các có hệ thống các kinh nghiệm quản lý chất lượng tốt
nhất do Tổ Chức tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Organization) đặt ra
để giúp các doanh nghiệp cải tiến các hệ thống quản lý nhằm đạt được các mục
tiêu về năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm để
duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng đồng nhất phù hợp với giá thành.
Khi doanh nghiệp áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, người tiêu
dùng có thể an tâm với chất lượng sản phẩm củ
a doanh nghiệp sản xuất ra. Nói
cách khác, có thể coi việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng như một “dấu
hiệu” xác định chữ tín giữa doanh nghiệp và khách hàng, là sự khẳng định cam
kết cung ứng sản phẩm có chất lượng tin cậy.
Trong hai thập kỉ qua “vấn đề chất lượng” nổi lên như là một trong những
yếu tố quan trọng nhất của thương mại và công nghiệ
p. Khách hàng EU nói

chuẩn chính ISO 9001- Hệ thống chất lượng, nêu ra các yêu cầu đối với hệ
thống quản lý chất lượng mà doanh nghiệp cần đáp ứng. Ngoài ra còn có các
tiêu chuẩn hỗ trợ và hướng dẫn thực hiện như : ISO 9000- thuật ngữ và định
nghĩa; ISO 9004- hướng dẫn cải tiến hiệu quả.
Trong quá trình thực hiện, doanh nghiệp có thể áp dụng một trong ba mô
hình sau trong bộ tiêu chuẩn này:
-
ISO 9001: áp dụng cho doanh nghiệp từ khâu thiết kế, triển khai, sản
xuất, lắp đặt và dịch vụ .
- ISO 9002: áp dụng cho doanh nghiệp sản xuất, lắp đặt dịch vụ (không
bao gồm khâu thiết kế).
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT

24
- ISO 9003: áp dụng cho doanh nghiệp trong quy trình kiểm tra thử
nghiệm cuối cùng đối với sản phẩm.
Để cho bộ ISO 9000 duy trì tính hiệu lực, những tiêu chuẩn này được xem
xét định kì (khoảng 5 năm một lần) nhằm cập nhập những phát triển mới nhất
trong lĩnh vực quản lý chất lượng, và thông tin phản hồi từ người sử dụng. Ban
kỹ thuật của Tổ chức tiêu chuẩn quốc t
ế ISO/TC/176 bao gồm nhiều chuyên gia
từ các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới theo dõi việc áp dụng các tiêu
chuẩn để xác định những cải tiến cần thiết nhằm thoả mãn những đòi hỏi và
mong muốn của người sử dụng và đưa vào phiên bản mới.
1.2.1.2 Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO 14000
Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, thị trường EU yêu cầu hàng hoá có
liên quan đến môi trường ph
ải dán nhãn theo quy định (nhãn sinh thái, nhãn tái
sinh) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận. Ví dụ, tiêu chuẩn GAP (good
agricultural Practice ) và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status