Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu - pdf 11

Download Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu miễn phí



Mục lục:
 
A, Lời mở đầu: 3
B, Nội dung: 4
I, Chương I: Lý luận chung về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. 4
I.1,Những vấn đề cơ bản về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. 4
I.1.1, Những vấn đề cơ bản về đầu tư, đầu tư phát triển: 4
I.1.1.1, Khái niệm: 4
I.1.1.2, Đặc điểm của đầu tư phát triển : 4
I.1.1.3,Vai trò đầu tư phát triển đối với nền kinh tế, đối với doanh nghiệp: 5
I.1.1.4, Phân loại đầu tư phát triển : 7
I.1.1.5, Hiệu quả đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư : 8
I.1.2, Những vấn đề cơ bản về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu: 9
I.1.2.1, Đầu tư theo chiều rộng: 9
I.1.2.2, Đầu tư theo chiều sâu : 10
I.1.2.3, Các chỉ tiêu đánh giá kết quả đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu: 12
I.2, Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu: 13
I.2.1, Đầu tư theo chiều rộng là nền tảng để đầu tư theo chiều sâu: 13
I.2.2, Đầu tư theo chiều sâu tạo điều kiện để đầu tư theo chiều rộng ở cả những khía cạnh cũ và mới: 15
I.2.3, Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là hai hình thức đầu tư đan xen, bổ sung lẫn nhau trong hoạt động đầu tư. 16
II, Chương II: Thực trạng phát triển đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu và sự kết hợp giữa chúng tại Việt Nam: 17
II.1,Thực trạng đầu tư theo chiều rộng. 17
II.1.1, Thành tựu ngành dệt may: 18
II.1.2, Thực trạng đầu tư chiều rộng của ngành dệt may: 20
II.2, Thực trạng đầu tư theo chiều sâu: 23
II.2.1, Đầu tư nguồn nhân lực. 23
II.2.2, Đầu tư khoa học công nghệ: 30
II.3, Thực trạng kết hợp đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam: 37
III, Chương III: Giải pháp thúc đẩy đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu và kết hợp hai hình thức một cách hiệu quả. 41
III.1, Một số giải pháp khắc phục những hạn chế trong ngành dệt may: 41
III.1.1, Nâng cao khả năng quản lí điều hành của nhà nước:tập trung vào chiến lược phát triển vùng nguyên liệu. 41
III.1.2, Giải quyết vấn đề thiếu vốn của doanh nghiệp. 42
III.1.3,Xây dựng nguồn nhân lực. 42
III.2, Giải pháp thúc đẩy đầu tư theo chiều sâu: 42
III.2.1, Giải pháp đầu tư phát triển nguồn nhân lực: 42
III.2.2, Giải pháp đầu tư nâng cấp khoa học công nghệ: 45
III.3, Giải pháp kết hợp hiệu quả đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. 49
III.3.1, Thứ nhất là nhóm giải pháp cho doanh nghiệp. 49
III.3.2, Thứ hai là nhóm giải pháp vĩ mô cho chính phủ. 51
IV, Kết luận: 54
C, Tài liệu tham khảo: 55
D, Danh sách nhóm 14: 55
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-17137/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

uất phát triển, đủ việc làm, thu nhập cao, biến động lao động nhỏ, công nhân gắn bó với công ty, thậm chí nhiều người xin vào làm việc. Ngược lai ở những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, sản xuất đình trệ, thiếu việc làm, thu nhập thấp sẽ nảy sinh tinh trạng “ đất không lành, chim không đậu”, công nhân lành nghề, công nhân mới đào tạo sau thơi gian quen việc cung sẽ dần chuyển sang công ty khác.
Bên cạnh đó ngành đang có tình trạng thiếu nguồn lao động quản lý và kĩ thuật, nghiệp vụ. Hầu hết, các cán bộ quản lý chủ chốt trong các doanh nghiệp Dệt may đều có trinh độ đại học hay cao đẳng, chuyên môn khá nhưng trình độ quản lý theo phong cánh công nghiệp còn yếu, tiếp cận với cách quản lý hiện đại còn ít. Cán bộ kĩ thuật chủ yếu trưởng thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi về chuyên môn của nhưng sản phẩm cụ thể con như việc sáng tác mẫu, tạo dang sản phảm còn rất kém. Các doanh nghiệp rất cần những kỹ sư có bằng cấp, công nhân kĩ thuật và các nhà quản lý- những người có khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại. Có một thực tế là nhiều doanh nghiệp bỏ ra một số tiền lớn để mua thiết bị và công nghệ hiện đại, giá cao để chuẩn bị cho việc sản xuất các mặt hàng cao cấp, song người vận hành các thiết bị này lại có trình độ chuyên môn thấp.
Hiện nay các doanh nghiệp mới chỉ gia tăng sản lượng sản phẩm thông qua việc gia tăng số lượng máy móc, sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu đầu vào trrong khi chưa có sự đổi mới dây chuyền máy móc .,đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ để có thể tiếp thu khoa học kĩ thuật góp phần tăng năng suất lao động.Đặc biệt trong công tác quản lí còn nhiều hạn chế ,đó là trong việc điều hành, xây dựng tác phong công nghiệp, tìm hiểu thị trường…
II.2, Thực trạng đầu tư theo chiều sâu:
II.2.1, Đầu tư nguồn nhân lực.
Khi nói đến nguồn nhân lực, ai cũng biết rằng đó là một trong những thế mạnh của nước ta và luôn được các nước trên thế giới quân tâm đến. Bởi ở Việt Nam luôn sẵn có một lực lượng nhân công hùng hậu nhưng vô cùng rẻ mạt, chính điều này đã giúp Việt Nam cạnh tranh được với các môi trường đầu tư khác và kích thích các nhà đầu tư trên toàn thế giới đầu tư vào nước ta. Nghe qua có vẻ lấy làm vui mừng khi Việt Nam trở thành 1 trong số những sự lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư trên toàn thế giới khi họ muốn lựa chọn cho mình một điểm đến. Nhưng nếu nghĩ sâu xa thì chúng ta cần đặt ra một câu hỏi rằng tại sao nhân công nuớc ta lại rẻ như thế, tại sao không nâng tầm nhân lực nước ta lên tầm cao hơn để sánh ngang với nhân công của các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, để trả lời các câu hỏi này, phải tìm hiểu xem nguồn nhân lực ở Việt Nam xuất phát từ đâu và đang trong tình trạng nào?
- Nguồn nhân lực từ nông dân: 
Tính đến nay, số dân của cả nước vào khoảng 86 triệu người, trong đó, nông dân chiếm khoảng hơn 61 triệu người, bằng khoảng 71% dân số của cả nước. Số liệu trên đây phản ánh một thực tế là nông dân nước ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội. Theo các nguồn số liệu thống kê được, hiện nay, cả nước có khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề và 40% sản phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực. 
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác, chưa được tổ chức, vẫn bị bỏ mặc và từ bỏ mặc đã dẫn đến sản xuất tự phát, manh mún. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều tự làm, đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần hướng dẫn cũng có thể làm được. Ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Nhìn chung, hiện có tới 90% lao động nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) chỉ là hình thức. Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị và rơi vào túi những ông có chức, có quyền ở địa phương, gây nên bất hợp lý trong chính sách đối với người nông dân. Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn không được khai thác, đào tạo, nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều.  Vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn Việt Nam đang rất đáng lo ngại. Nông dân ở những nơi bị thu hồi đất thiếu việc làm; chất lượng lao động thấp, nhưng cho đến nay vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chính sách đối với nông dân, nông thôn, nông nghiệp chưa rõ ràng. 
- Nguồn nhân lực từ công nhân: 
Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng dưới 5 triệu người, chiếm 6% dân số của cả nước, trong đó, công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ thấp, khoảng gần 2 triệu người, bằng khoảng 40% so với lực lượng công nhân nói chung của cả nước; lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước có khoảng 2,70 triệu, chiếm gần 60%. Xu hướng chung là lực lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng ít đi, trong khi đó, lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng lên. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ công nhân nói chung. Trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp. Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người, chiếm khoảng 3,3% so với đội ngũ công nhân nói chung ở Việt Nam. Số công nhân xuất khẩu lao động tiếp tục tăng, tuy gần đây có chững lại. Từ năm 2001 đến năm 2006, Việt Nam đã đưa được gần 375 nghìn người lao động đi làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ, tăng gấp 4 lần so với thời kỳ 1996-2000 (95 nghìn người). Hiện nay, lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài có khoảng 500 nghìn người, làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề. Vì đồng lương rẻ mạt, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là c...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status