Một số vấn đề về xuất khẩu gạo của Việt Nam - pdf 12

Download Chuyên đề Một số vấn đề về xuất khẩu gạo của Việt Nam miễn phí



Cho đến nay Việt Nam hầu như chỉ xuất khẩu gạo theo điều kiện FOB là chính, thêm vào đó xuất khẩu gạo của Việt Nam còn mang tính chất từng chuyến, từng đợt nên khó tìm được bạn hàng và thị trường ổn định. Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam phải xuất sang Singapore để tái xuất khẩu vì không tìm được thị trường trực tiếp. Đây cũng là nguyên nhân làm cho giá gạo Việt Nam thua thiệt rất nhiều. Mặt khác nước ta nằm trong khu vực Châu Á, nơi có nhiều nước cũng xuất khẩu gạo nên thường bị cạnh tranh, chèn ép giá trên thị trường xuất khẩu. Việc thiếu hụt thông tin thị trường và kinh nghiệm kinh doanh đã làm cho giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các nước láng giềng.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-29634/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

gạo vượt ngưỡng 1 tỉ USD. Sang năm 1999, thị trường xuất khẩu gạo của ta tiếp tục được mở rộng so với năm 1998, trong đó có thể kể đến các thị trường trước đây và trong năm 1998 không nhập khẩu hay nhập khẩu ít như: BaLan, các Tiểu Vương Quốc Ả Rập thống nhất, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Inđônêsia vẫn là thị trường xuất khẩu chủ yếu cho gạo Việt Nam, với lượng gạo xuất khẩu vào thị trường này đạt gần 1,15 triệu tấn trong năm 1999, chiếm 42,5% lượng gạo nhập khẩu của nước này và một trong những nước nhập khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Cũng trong năm này nước ta xuất khẩu gạo vào Iran và Irắc khoảng 2,6%, vào thị trường Châu Phi chiếm 23,67% tổng lượng gạo nhập khẩu.
Trong năm 2000, cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn ổn định, các thị trường lớn vẫn nhập khẩu gạo đó là: Philippin, Inđônêsia, Malaysia và Hồng Kông. Trong đó thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất là Irắc, riêng tháng 11 năm 2000 ta xuất sang Irắc 57,5 nghìn tấn gạo. Cũng trong tháng này, thị trường mới xuất khẩu gạo là Thổ Nhĩ Kỳ (22 tấn).
Năm 2001, công việc tìm hiểu và mở rộng thị trường được thực hiện khá thành công, nhiều đoàn công tác cấp Chính Phủ, cấp Bộ đã được cử đi các thị trường Đông Nam Á, Châu Phi, Trung Đông, Châu Mỹ… Kết quả là nhiều thoả thuận Chính phủ về xuất khẩu gạo đã được ký, các hiệp định thương mại được ký với một số nước nhập khẩu gạo lớn ở Châu Phi. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp xuất khẩu của ta thâm nhập vào các thị trường tiềm năng này, qua đó đẩy mạnh việc xuất khẩu trực tiếp tới các nhà nhập khẩu của họ. Việc xuất khẩu gạo vào các thị trường truyền thống như Nga và một số nước Đông Âu được phục hồi và có mức tăng khá. Trong năm 2001 Việt Nam trúng thầu 2 đợt gạo xuất sang Philippin với tổng sản lượng 400 nghìn tấn, thời hạn giao hàng từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2001. Ngoài ra, Việt Nam tiếp tục thanh toán các hợp đồng xuất khẩu gạo sang Châu Phi, Inđônêsia, Cuba. Các hợp đồng này đã nâng mức xuất khẩu gạo của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2001 lên 1,8 triệu tấn, trị giá 280,2 triệu USD, tăng gần 64,4% về lượng và 24,4% về giá trị so với cùng kỳ.
Với phương châm lượng giảm- chất tăng, năm 2002 nước ta đã xuất khẩu 3,24 triệu tấn gạo thu về 725,500 triệu USD. Trong đó, thị trường Châu Á là 1580 triệu USD; Trung Đông: 900 USD; Châu Phi: 287 triệu USD; Châu Mỹ: 254 triệu USD; Châu Âu: 180 triệu USD. Thị trường xuất khẩu gạo năm nay của Việt Nam được mở rộng hơn, giá cả cũng được cải thiện hơn.
Đến nay tuy gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước thuộc tất cả các Đại lục, nhưng số lượng gạo do các tổ chức Việt Nam trực tiếp ký kết với các thị trường còn chiếm tỷ lệ thấp, số bán qua trung gian nước ngoài vẫn chiếm tỷ lệ lớn, đặc biệt là thị trường Châu Phi – nơi tiêu thụ khối lượng lớn gạo Việt Nam thì hầu hết do các trung gian nước ngoài đứng ra thực hiện, vì vậy gạo của Việt Nam luôn bị ép bán với gía thấp hơn giá thực tế, điều đó đã làm ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cho đến nay Việt Nam chưa xây dựng được cho mình một hệ thống bạn hàng trực tiếp tin cậy, có mối quan hệ chặt chẽ, chưa có chính sách thích hợp về bạn hàng và thị trường quốc tế. Hiện nay thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn là vấn đề bức xúc đòi hỏi sự nỗ lực từ phía Nhà nước và các Doanh nghiệp. Thị trường là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của sản xuất. Trong những năm tới nước ta cần tiếp tục củng cố và khai thác các thị trường truyền thống đồng thời tìm kiếm thị trường mới.
2.3. Khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới .
2.3.1. Về chất lượng.
Mặc dù gạo xuất khẩu của Việt Nam được xếp vào hàng “Top ten” một số mặt hàng nông sản nhưng đó chỉ là về phương diện sản lượng. Thực tế giá trị xuất khẩu của mặt hàng gạo so với sản phẩm cùng loại của nhiều nước khác thì vẫn ở mức thấp. Có thể thấy rằng thách thức lớn nhất đối với gạo xuất khẩu của Việt nam là chất lượng và công nghệ chế biến. Chất lượng gạo được đánh giá theo tỷ lệ tấm trong gạo và kỹ thuật đánh bóng. Hiện tại trong cơ cấu sản xuất gạo chất lượng cao của ta còn ít chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong sản lượng, do đó mới chỉ đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Trong cùng thời gian Thái Lan xuất khẩu gạo phẩm cấp cao thường chiếm tới 60 – 62% còn Việt Nam chỉ ở 40 – 45% tổng lượng gạo xuất khẩu. Chính vì hạn chế này mà gạo Việt Nam chưa vào được các thị trường cao cấp mà gạo Mỹ, Thái Lan đang chiếm lĩnh.
Bảng 6: Phân loại chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam.(%)
Loại gạo
Năm
Phẩm cấp cao (5-10% tấm)
Phẩm cấp trung bình (15-20% tấm)
Phẩm cấp thấp (>25% tấm)
Tổng số
1993
27,3
21,5
51,2
100
1995
23,6
22,4
54,0
100
1997
39,2
8,4
52,4
100
1998
40
12
48
100
1999
47
15
44
100
2000
42
26
32
100
2001
41
17
42
100
2002
42
35
23
100
(Nguồn: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Số 3/2003)
Trong những năm đầu xuất khẩu gạo Nam thường ít xuất khẩu trực tiếp mà xuất khẩu qua trung gian, bởi chất lượng gạo không cao. Chúng ta bán gạo cho Thái Lan, Singapore, các nước này làm trung gian thực hiện chế biến lại và sau đó tái xuất khẩu cho các nước khác. Năm 1989 là năm đầu tiên đất nước ta trở lại xuất khẩu gạo chủ yếu là gạo cấp thấp chiếm 97,42% (tỷ lệ tấm 25%). Trong thời kỳ này gạo xuất khẩu của ta không có khả năng cạnh tranh với gạo Thái Lan và các nước có truyền thống xuất khẩu gạo. Từ các năm sau để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế nước ta đã tập trung lớn vào việc sản xuất các loại gạo có phẩm cấp cao, về sản xuất ta thu thêm được giống mới, cải tạo giống tăng thêm lượng gạo hạt dài có hương vị đậm đà hơn, về chế biến đã cải tiến đổi mới, tổ chức bảo quản tốt hơn từ năm 1998 đến nay, chất lượng gạo được cải thiện rõ rệt, gạo cấp cao thường xuyên chiếm tỷ trọng khoảng 40% (năm 1999 đạt tới 47%) tỷ trọng gạo cấp thấp giảm đáng kể, từ 51,2% năm 1993, xuống còn 44% năm 1999. Đến năm 2002, sự thay đổi chất lượng gạo được thể hiện qua: tỷ trọng lượng gạo cao cấp 42%, tỷ trọng gạo cấp thấp là 23%. Sở dĩ tỷ trọng gạo chất lượng cao và gạo chất lượng thấp chiếm phần lớn trong khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là do thị trường gạo tập trung chủ yếu vào Châu Phi và Châu Á, nơi có nhu cầu gạo phẩm cấp thấp, còn gạo phẩm cấp cao là thể hiện sự nhạy bén của Việt Nam theo nhu cầu thế giới. Từ những con số trong bảng ta có thể thấy được những tiến bộ của ngành sản xuất lúa gạo nói chung, lĩnh vực xuất khẩu gạo nói riêng, điều đó được chứng minh qua chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được cải thiện tốt hơn.
Chúng ta đều biết chất lượng gạo có liên quan đến hàng loạt các yếu tố từ khâu sản xuất đến khâu bảo quản, vận chuyển và chế biến thì ở Việt Nam đa số nông dân có t
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status