Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre - pdf 12

Download Đề tài Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre miễn phí



Thị trường Châu Âu, đặc biệt là thị trường EU. Đây là thị trường chủ lực của công ty, thị trường chính của công ty đến thời điểm hiện tại. Trong các năm qua thị trường nhuyển thể hai mảnh vỏ của Châu Âu trong đó có nghêu đã phát triển khá mạnh. Các sản phẩm của công ty xuất sang thị trường EU là cá tra, nghêu, tôm được khách hàng đánh giá cao. Thị trường này thường có những rào cản thuế quan và phi thuế quan nhằm hạn chế các nước nhập khẩu theo những điều kiện có lợi cho họ. Tuy nhiên, đây là thị trường có uy tín cao, việc xuất hàng vào Châu Âu cũng có một ý nghĩa nhất định như một chứng chỉ về trình độ - thị trường đòi hỏi cao về chất lượng về chỉ tiêu kháng sinh. Vì thế để đáp ứng được đòi trên, công ty đã đầu tư rất nhiều vào máy móc hiện đại để kiểm tra hàm lượng kháng sinh, nhằm đáp ứng được đơn đặt hàng.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-30540/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

tex Bentre
Qua bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty ( xem phụ lục bảng 1) và biểu đồ, ta nhận thấy đường biểu diễn doanh thu có chiều hướng đi lên cho thấy tốc độ phát triển doanh thu của công ty ngày càng có xu hướng tăng. Năm 2005 tổng doanh thu của công ty từ 282.432.689 ngàn đồng tăng lên 332.483.246 ngàn đồng năm 2006, tức tăng 50.050.557 ngàn đồng, tương đương 17,72%. Trong năm 2007, doanh thu của công ty cũng có sự tăng trưởng đáng kể so với cùng kỳ 2006, cụ thể doanh thu tăng 28,51%, đạt 427.288.288 ngàn đồng. Từ năm 2005 – 2007, tổng doanh thu tăng là do sản phẩm nghêu và cá mang lại. Trong năm 2006, sản lượng nghêu tăng 35,88% và sản lượng cá tăng 20,81% so với năm 2005.
Với sự tăng trưởng doanh thu qua các năm, lợi nhuận của công ty cũng tăng đáng kể. Năm 2006, lợi nhuận trước thuế tăng so với 2005 với mức tuyệt đối 16.926.505 ngàn đồng tương đương với 216,71% và năm 2007, lợi nhuận tăng 43.452.650 ngàn đồng với tỷ lệ là 75,66 %. Lợi nhuận của công ty chủ yếu là khoản đóng góp từ hoạt động xuất khẩu thủy sản.
Nhìn chung tình hình hoạt động kinh doanh của công ty có xu hướng phát triển tốt, doanh thu và lợi nhuận tăng qua các năm. Công ty đạt được kết quả trên là do công ty luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đồng thời, công ty cũng áp dụng nhiều biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường như hoạt động marketing quảng bá thương hiệu, giữ vững và nâng cao uy tín thương hiệu, đáp ứng nguồn hàng có chất lượng cao.
3.3. Phân tích tình hình doanh thu
3.3.1. Tình hình doanh thu theo cơ cấu sản phẩm dịch vụ
Bảng 3: Bảng doanh thu theo cơ cấu sản phẩm, dịch vụ
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Giá trị (triệu đ)
Tỷ trọng (%)
Giá trị (triệu đ)
Tỷ trọng (%)
Giá trị (triệu đ)
Tỷ trọng (%)
Hàng thủy sản
250.803
88,80
326.874
98,31
385.542
90,23
- Nghêu, sò
79.725
28,23
109.098
32,81
83.664
19,58
- Cá
117.604
41,64
204.436
61,49
300.483
70,32
- Tôm
53.474
18,93
13.340
4,01
1.395
0,33
Hàng hóa nhập khẩu
30.131
10,67
3.608
1,09
34.781
8,14
Kinh doanh khác
1.499
0,53
2.001
0,60
6.965
1,63
Tổng cộng
282.433
100,00
332.483
100,00
427.288
100,00
Nguồn phòng kế toán công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre có nhiều lĩnh vực hoạt động kinh doanh song hoạt động chế biến các mặt hàng thủy sản xuất khẩu là chủ yếu. Vì thế, doanh thu của công ty phần lớn là thu từ hoạt động này.
Nhận xét:
Qua bảng số liệu ta nhận thấy doanh thu của các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của công ty tăng qua các năm, cụ thể như sau:
+ Mặt hàng cá
Đặc biệt đối với mặt hàng cá tra fillet: Cá tra, basa là sản phẩm xuất khẩu chính và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu của công ty, công ty bắt đầu đi vào hoạt động chế biến và xuất khẩu sản phẩm này dưới dạng cá đông block truyền thống và cá đông cao cấp. Thị trường cá đang có xu hướng tăng trưởng, cá tra, cá basa Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới và đang thay thế dần cá tuyết và cá minh thái. Với các đặc điểm như cá thịt trắng, ngọt, không có xương dăm, mùi dịu nhẹ, thịt chắc, dễ chế biến, giá thấp nên có xu hướng dùng cá fillet rất phổ biến, nhu cầu tiêu thụ cá tra, basa ngày càng tăng, thị trường xuất khẩu cá tra, basa còn tiếp tục mở rộng. Bên cạnh đó, nhu cầu thị trường nội địa cũng có xu hướng tăng. Vì vậy công ty cần chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này nhằm đem lại một nguồn thu lớn cho công ty.
Trong năm 2005, doanh thu mặt hàng cá đạt 117.604 triệu đồng, đến năm 2006 doanh thu tăng lên 204.436 triệu đồng, về tỷ trọng chiếm 61,49% tổng doanh thu, tăng 86.832 triệu đồng so với năm 2005, Năm 2007, doanh thu của mặt hàng cá lại tiếp tục tăng đạt 300.483 triệu đồng chiếm tỷ trọng 70,32% doanh thu tăng 96.047 triệu đồng so với năm 2006.
Sản phẩm cá tra, basa fillet: năm 2005 công ty đứng thứ 12 các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa Việt Nam, đạt sản lượng 2.749 tấn (chiếm 2%). Năm 2006 công ty đứng hàng 18 với sản lượng 3.321 tấn (chiếm 1,55%). Thế mạnh của công ty trong chế biến xuất khẩu cá tra là công nhân có tay nghề cao do tham gia chế biến cá tra từ rất sớm (năm 1999), qui trình sản xuất hoàn chỉnh, nghề nuôi cá tra tăng sản trong tỉnh đang phát triển mạnh, có hệ thống kiểm soát nguyên liệu đầu vào và truy xuất nguồn gốc sản phẩm tốt, hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu cung cấp sản phẩm cá “sạch”, chất lượng cao, khách hàng tiêu thụ ổn định.
Đối thủ cạnh tranh mặt hàng cá tra fillet của công ty là các công ty sản xuất xuất khẩu cá tra, basa tại khu vực ĐBSCL. Thế mạnh của các công ty sản xuất cá tra, basa trong khu vực là nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định, có trang thiết bị công nghệ hiện đại, công suất lớn. Thị trường xuất khẩu cá tra ngày càng mở rộng, sản lượng cá nuôi trong vùng tăng nhanh hàng năm, cá tra chất lượng cao, cá “sạch” (cá tra thịt trắng, không nhiễm kháng sinh, hóa chất) hiện có nhu cầu rất cao trên thị trường nhưng các doanh nghiệp chưa đáp ứng đủ.
+ Mặt hàng nghêu, sò:
Doanh thu của mặt hàng nghêu, sò tăng trưởng khá cao qua các năm và tăng dần về tỷ trọng cụ thể năm 2005 chiếm 28,23% đến năm 2006 là 32,81% và qua năm 2007 có xu hướng giảm là 19,58%. Năm 2006 doanh thu đạt 109.098 triệu đồng, tăng 29.373 triệu đồng so với năm 2005. Năm 2007, doanh thu tăng 83.664 triệu đồng, tương đương với 26,93% so với năm 2006.
Trong bối cảnh hiện nay, người tiêu dùng luôn quan tâm đến an toàn thực phẩm, họ chú trọng đến các sản phẩm sinh thái, sản phẩm sạch, trong đó có nghêu. Các sản phẩm nghêu sò chiếm ưu thế và kích thích nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Công ty đứng đầu các doanh nghiệp xuất khẩu nghêu của Việt Năm, năm 2005 xuất khẩu 2.478 tấn nghêu chiếm 24% thị phần, năm 2006 xuất khẩu 3.367 tấn chiếm 31% thị phần.
Lợi thế cạnh tranh mặt hàng nghêu của công ty là tọa lạc ngay tại tỉnh có sản lượng nghêu lớn nhất nước (sản lượng 45.000 tấn/năm, diện tích nuôi 5.000 ha), có trang thiết bị công nghệ chế biến nghêu hoàn chỉnh, công suất lớn, công nhân có tay nghề cao, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn cao nhất về vi sinh và về cảm quan, có mối quan hệ đối tác với nhiều khách hàng lớn tại các thị trường nhập khẩu chính. Bên cạnh đó, nghêu là sản phẩm đặc thù của công ty ít “đụng hàng” với sản phẩm của các công ty xuất khẩu thủy sản lớn ở ĐBSCL và không bị cạnh tranh bởi các sản phẩm cùng loại của các nước nhập khẩu. Việc này cũng giảm thiểu được sự kiện cáo bán phá giá ở nước nhập khẩu dẫn đến nguy cơ mất thị trường. Việt Nam đã được EU công nhận trong danh sách nhóm 1 các nước được phép xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ vào thị trường này với 18 vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ có tổng diện tích 33.885 ha, đạt sản lượng 141.950 tấn. Riêng Bến Tre với 8 hợp tác xã nuôi và khai thác nghêu tại 3 huyện Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú đều được đưa vào chương trình kiểm soát thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ để khai thác, chế biến xuất khẩu vào EU. Tuy nhiên, sản phẩm nghêu còn phụ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status