Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa các hoạt động logistics hỗ trợ và các hoạt động logistics then chốt - pdf 12

Download Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa các hoạt động logistics hỗ trợ và các hoạt động logistics then chốt miễn phí



Hệ thống thông tin Logistics bao gồm thông tin trong nội bộ từng tổ chức (doanh nghiệp, nhà cung cấp, khách hàng của doanh nghiệp), thông tin trong từng bộ phận chức năng (kỹ thuật, marketing, kế toán, tài chính ) thông tin ở từng khâu trong dây chuyền cung ứng (kho hàng, bến bãi, vận tải ) và sự kết nối thông tin giữa các tổ chức, bộ phận, công đoạn nêu trên. Do đó nếu thông tin trao đổi chậm chạp, sai sót sẽ phát sinh tăng chi phí lưu kho, lưu bãi, vận tải, giao hàng không đúng thời hạn dẫn đến mất khách hàng, và nghiêm trọng hơn nếu thông tin không chính xác có thể đẩy doanh nghiệp đến thua lỗ và phá sản.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-31856/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

Làm thế nào để tránh được lỗi thất vọng của khách hàng khi hăm hở ra cửa hàng vừa được quảng cáo nhưng lại được báo là hàng chưa về? Tóm lại, để thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng với chi phí thấp nhất, điều đó chỉ có thể giải quyết được là nhờ Logistics.
2.1. Vai trò của Logistics đối với nền kinh tế
Logistics là một chuỗi các hoạt động liên tục, có liên hệ mật thiết với nhau và có tác động qua lại lẫn nhau. Nếu xem xét ở góc độ tổng thể ta thấy Logistics là mối liên kết kinh tế xuyên suốt gần như toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Mỗi hoạt động trong chuỗi đều có vị trí và chiếm một khoản chi phí nhất định. Một nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học cho thấy, chỉ riêng hoạt động Logistics đã chiếm từ 10-15% GDP của hầu hết các nước lớn ở Châu Âu, Bắc Mỹ và một số nền kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương. Vì vậy nâng cao hiệu quả hoạt động Logistics thì sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.
Logistics hỗ trợ cho việc chu chuyển các giao dịch quốc tế. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển nhịp nhàng, đồng bộ một khi dây chuyền Logistics hoạt động liên tục, nhịp nhàng.
Hàng loạt các hoạt động kinh tế liên quan diễn ra trong chuỗi Logistics theo đó các nguồn tài nguyên được biến đổi thành sản phẩm và điều quan trọng hơn là giá trị được tăng lên cho cả khách hàng lẫn người sản xuất, giúp thoả mãn nhu cầu của mọi người.
2. 2. Vai trò của Logistics đối với các doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp Logistics có vai trò rất to lớn. Logistics giúp giải quyết các đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nhờ có thể thay đổi các nguồn tài nguyên đầu vào hay tối ưu hoá quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ…Logistics giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp thành công lớn nhờ có được chiến lược và hoạt động Logistics đúng đắn, ngược lại có không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí thất bại, phá sản do có những quyết định sai lầm trong hoạt động Logistics, ví dụ: chọn sai vị trí, chọn nguồn tài nguyên cung cấp sai, dự trữ không phù hợp, tổ chức vận chuyển không hiệu quả…Ngày nay, để tìm được vị trí tốt hơn, kinh doanh hiệu quả hơn, các tập đoàn đa quốc gia, các công ty đủ mạnh đã và đang nỗ lực tìm kiếm trên toàn cầu nhằm tìm được nguồn nguyên liệu, nhân công, vốn, bí quyết công nghệ, thị trường tiêu thụ, môi trường kinh doanh…tốt nhất và thế là Logistics toàn cầu hình thành và phát triển.
Ngoài ra, Logistics còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing, chính Logistics đóng vai trò then chốt trong lĩnh vực đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng đúng thời gian và địa điểm thích hợp. Sản phẩm, dịch vụ chỉ có thể làm thoả mãn khách hàng và có giá trị khi và chỉ khi nó đến được với khách hàng đúng thời hạn và địa điểm quy định. Mục tiêu của Logistics là cung cấp hàng hoá dịch vụ cho khách hàng với tổng chi phí nhỏ nhất.
Tổng chi phí
=
chi phí vận tải
+
chi phí lưu kho, lưu bãi
+
chi phí giải quyết đơn hàng và cung cấp thông tin
+
chi phí sản xuất và chi phí dự trữ.
II. Các hoạt động Logistics và mối quan hệ giữa chúng
1. Các hoạt động Logistics cơ bản và vai trò.
1.1,Dịch vụ khách hàng
Nhu cầu của khách hàng là nguồn gốc cho tất cả các hoạt động logistics. Trong hoạt động logistics, dịch vụ khách hàng được hiểu là toàn bộ kết quả đầu ra, là thước đo chất lượng của toàn bộ hệ thống. Do đó muốn phát triển logistics phải có sự quan tâm thích đáng đến dịch vụ khách hàng. Theo quan điểm này, dịch vụ khách hàng là quá trình diễn ra giữa người mua và người bán và bên thứ ba là nhà thầu phụ. Kết quả của quá trình này tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm hay dịch vụ được trao đổi, được đo bằng hiệu số giá trị đầu ra và giá trị đầu vào của một loạt các hoạt động kinh tế có quan hệ tương hỗ với nhau và thể hiện qua sự hài lòng của khách hàng. Dịch vụ khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến thị phần, đến tổng chi phí bỏ ra và cuối cùng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Vai trò
- Dịch vụ khách hàng như một hoạt động
Mức độ ít quan trọng nhất của hầu hết các công ty là xem xét dịch vụ khách hàng đơn giản là một hoạt động. Cấp độ này coi dịch vụ khách hàng như một nhiệm vụ đặc biệt mà doanh nghiệp phải hoàn thành để thoả mãn nhu cầu khách hàng. Giải quyết đơn hàng, lập hoá đơn, gửi trả hàng, yêu cầu bốc dỡ là những ví dụ điển hình của mức dịch vụ này. Khi đó các hoạt động dịch vụ khách hàng trong bộ phận logistics dừng lại ở mức độ hoàn thiện các giao dịch. Phòng dịch vụ khách hàng ( Call centrer) là cơ cấu chức năng chính thay mặt cho mức dịch vụ này, nhiệm vụ cơ bản là giải quyết các vấn đề phàn nàn và các khiếu nại của khách hàng
- Dịch vụ khách hàng như là thước đo kết quả thực hiện
Mức dịch vụ này nhấn mạnh việc đo lường kết quả thực hiện như là tỷ lệ % của việc giao hàng đúng hạn và đầy đủ; số lượng đơn hàng được giải quyết trong giới hạn thời gian cho phép. Việc xác định các thước đo kết quả thực hiện đảm bảo rằng những cố gắng trong dịch vụ của công ty đạt được sự hài lòng khách hàng thực sự. Tập trung vào thước đo kết quả thực hiện dịch vụ khách hàng là rất quan trọng vì nó cung cấp phương pháp lượng hóa sự thành công trong việc thực hiện tốt các chức năng của hệ thống logistics tại doanh nghiệp. Các phương pháp này cung cấp những tiêu chuẩn để làm thước đo cho sự cải tiến và đặc biệt quan trọng khi một công ty đang cố gắng thực hiện chương trình cải tiến liên tục.
- Dịch vụ khách hàng như là một triết lý.
Dịch vụ khách hàng như là một triết lý cho phép mở rộng vai trò của dịch vụ khách hàng trong một công ty. Mức độ này nâng dịch vụ khách hàng lên thành thoả thuận cam kết của công ty nhằm cung cấp sự thoả mãn cho khách hàng thông qua các dịch vụ khách hàng cao hơn. Quan niệm này này coi sự cống hiến dịch vụ khách hàng bao trùm toàn bộ công ty và hoạt động của công ty. Quan điểm này rất phù hợp với việc coi trọng quản trị số lượng và chất lượng hiện nay của công ty. Tuy nhiên, nó chỉ thành công khi coi phần giá trị tăng thêm như mục tiêu của triết lý dịch vụ khách hàng.
1.2 Quản trị Dự trữ:
Dự trữ là sự tích luỹ sản phẩm, hàng hoá tại các doanh nghiệp trong quá trình vận động từ điểm đầu đến điểm cuối của mỗi dây chuyền cung ứng, tạo điều kiện cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, nhịp nhàng, thông suốt. Dự trữ trong nền kinh tế còn cần thiết do yêu cầu cân bằng cung cầu đối với các mặt hàng theo thời vụ, để đề phòng các rủi ro, thoả mãn những nhu cầu bất thường của thị trường, dự trữ tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. Mặc dù rất cần thiết nhưng dự trữ rất tốn kém về chi phí, tại công ty Cambell Soup dự trữ chiếm đến 30% tài sản, và chiếm đến hơn 50% tài sản của tập đoàn Kmart. Vì vậy việc quản lý dự trữ tốt sẽ giúp doanh nghiệp cân đối giữa vốn đầu tư với những cơ h...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status