Tiểu luận Tranh chấp thương mại và các phương thức giải quyết - pdf 12

Download Tiểu luận Tranh chấp thương mại và các cách giải quyết miễn phí



Về thẩm quyền giải quyết của trọng tài : Điều 2 Luật trọng tài thương mại quy định gồm có : Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Một tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài ngoài điều kiện trên còn phải đáp ứng điều kiện giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài. Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003: khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành. Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-32939/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

giải, trọng tài hay tòa án theo quy định của pháp luật…”
Các Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam – Ấn Độ, Việt Nam – Bungari, Việt Nam – Lào…đều khuyến khích việc sử dụng các cách giải quyết ngoài tòa án như là những cách giải quyết phù hợp với các bên tranh chấp.
Như vậy, cả pháp luật trong nước lẫn điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết đều đã ghi nhận thương lượng, hòa giải là những cách giải quyết tranh chấp thương mại giữa các bên song còn nhiều nội dung liên quan chưa được quy định cụ thể.
Chủ thể của thương lượng, hòa giải
Chủ thể của hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng các cách thương lượng, hòa giải là các nhà kinh doanh hay thay mặt ủy quyền, các nhà thương nhân. Các nhà kinh doanh khi tham gia hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, khi có tranh chấp xảy ra, họ là người đầu tiên có trách nhiệm xử lý, giải quyết. Tuy nhiên, khi các tranh chấp thương mại phát sinh không nhất thiết phải do các thay mặt có thẩm quyền của các bên đứng ra giải quyết mà có thể có cơ chế ủy quyền.
Các bên tranh chấp cần có các nhà thương lượng để thay mặt, giúp đỡ họ trong quá trình thương lượng, đó là những người đủ các phẩm chất cần thiết để thực hiện nhiệm vụ thương lượng của mình.
Chủ thể của hoạt động giải quyết tranh chấp bằng cách hòa giải còn là người trung gian – hòa giải viên. Đó là các cá nhân, pháp nhân được các bên yêu cầu đứng ra làm trung gian hòa giải để giải quyết tranh chấp.
Pháp luật hiện chưa có quy định về phẩm chất, điều kiện cần có của một nhà thương lượng, một hòa giải viên, tuy nhiên nếu họ là luật sư hay hòa giải viên thì phải đáp ứng được điều kiện được quy định trong điều 10 Luật luật sư 2006 và Điều 12 Pháp lệnh trọng tài Thương mại 2003.
Điều kiện của thương lượng, hòa giải:
Các bên đương sự được đảm bào quyền tự định đoạt, có quyền tự thương lượng, hòa giải với nhau mà không bị giới hạn bởi điều luật nào, nếu không thành thì sẽ được giải quyết bằng con đường trọng tài hay tòa án. Điều kiện để thương lượng, hòa giải một tranh chấp thương mại, trước hết phải xem xét thỏa mãn : có tranh chấp thương mại xảy ra, các bên mong muốn loại bỏ mâu thuẫn, khắc phục tổn thất, tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác và các bên đều có tinh thần thiện chí, nhân nhượng, tôn trọng và giữ gìn uy tín cho nhau. Các tranh chấp sử dụng cách này thường có giá trị nhỏ, ít phức tạp, chưa trở nên gay gắt, các bên hiểu về nhau, sẵn sàng nhân nhượng và duy trì mối quan hệ lâu dài. Nói vậy không có nghĩa là các tranh chấp phức tạp, giá trị tài sản lớn, liên quan đến nhiều tổ chức, quốc gia thì không thể thương lượng hòa giài mà vấn đề là các bên phải có thiện chí hợp tác mà mong muốn dùng phương pháp này để giải quyết nhanh chóng các tranh chấp đó.
Phương pháp thương lượng, hòa giải:
Pháp luật không có quy định nào về phương pháp tiến hành thương lượng, hòa giải, nhưng trên thực tế chủ thể có thể tiến hành các phương pháp như:
- Chủ động khai thác yếu tố tâm lý, tình cảm; khéo léo thuyết phục, khuyên nhủ; mềm mỏng, kiên trì, sáng tạo; phân tích rõ lợi hại, cho thấy thiện chí đôi bên…Điều này làm cho các bên ôn hòa, nhường nhịn, thông cảm cho nhau, dễ tìm được tiếng nói chung để giải quyết tranh chấp.
Nhanh chóng đưa ra được nhiều phương án giải quyết để các bên cùng lựa chọn, quyết định; dành cho nhau những khoảng thời gian hợp lý để chọn được phương án tối ưu, biết dung hòa các lợi ích khác biệt, đáp ứng mong muốn của cả đôi bên.
Kết hợp đàm phán trực tiếp với việc đưa ra các tài liệu, dẫn chứng. Điều này thể hiện việc giải quyết tranh chấp linh động, khôn khéo, vừa có lý vừa có tình, tạo ra sự tin tưởng và tính thuyết phục đối với mỗi bên.
Luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên cùng được thể hiện quan điểm, nguyện vọng, ý tưởng của mình để dễ dàng hơn trong việc tìm ra tiếng nói chung và đi đến thống nhất, có như vậy vụ tranh chấp mới được giải quyết nhanh chóng và thỏa đáng.
Nội dung của thương lượng, hòa giải:
Có thể nêu ra một số công việc cần tiến hành như : xác định trách nhiệm cụ thể đối với các bên; xác định những biện pháp chế tài nếu một bên hay các bên không thực thi đầy đủ kết quả thương lượng, hòa giải đã thống nhất. Ngoài ra, các bên có thể phải tiến hành nhiều công việc khác tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể. Mọi công việc tiến hành không trái đạo đức xã hội, không gây tổn hại cho bất kỳ ai.
Hiệu lực của thương lượng, hòa giải:
Thương lượng, hòa giải là các cách giải quyết tranh chấp trên cơ sở tự nguyện của các bên. Biên bản thỏa thuận, hòa giải không phải là một bản án nên việc thực hiện phương án thương lượng, hòa giải mà các bên đã đạt được không mang tính cưỡng chế. Đây là điểm làm hạn chế hiệu lực thi hành các kết quả thu được từ quá trình giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải. Về vấn đề này, pháp luật hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ.
Ưu, nhược điểm:
Thương lượng:
Ưu điểm nổi bật của cách giải quyết này là sự thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Mặt khác, giải quyết tranh chấp bằng thương lượng còn bảo vệ uy tín cho các bên tranh chấp cũng như bí mật kinh doanh của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh doanh hơn ai hết tự biết bảo vệ quyền lợi của bản thân, hiểu rõ những bất đồng và nguyên nhân phát sinh tranh chấp nên quá trình đàm phán, thương lượng dễ hiểu và cảm thông với nhau hơn để có thể thỏa thuận các giải pháp tối ưu theo nguyện vọng mỗi bên mà không phải cơ quan tài phán nào cũng làm được. Bởi vậy, nếu thương lượng thành công không những các bên đã loại bỏ được những bất đồng phát sinh mà mức độ phương hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tăng cường sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau trong tương lai.
Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế nhất đinh. Thương lượng thành công hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết, thái độ thiện chí, hợp tác của các bên. Khi một hoặc các bên thiếu sự hiểu biết về lĩnh vực đang tranh chấp, không nhận thức được vị thế của mình, khả năng thắng thua nếu phải theo đuổi vụ kiện tại cơ quan tài phán hoặc không có thái độ nỗ lực hợp tác, thiếu sự thiện chí, trung thực trong quá trình thương lượng thì khả năng thành công là rất mong manh, kết quả thường bế tắc.
Hòa giải:
Ưu điểm của phương thức hòa giải là đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt, hiệu quả, ít tốn kém. Hòa giải còn có thêm ưu điểm vượt trội do người thứ ba (thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực đang tranh chấp) mang lại. Họ sẽ là người biê...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status