Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam - pdf 13

Download Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam miễn phí



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM.
1.1. KINH TẾ TƯ NHÂN.
1.1.1. Khái niệm.
1.1.2. Bản chất của kinh tế tư nhân.
1.2 TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở NƯỚC TA.
1.3. BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
1.3.1. Tư tưởng của LêNin trong thời kỳ chính sách kinh tế mới.
1.3.2. Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập.
2. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN.
2.1.1. Trước những năm 1986.
2.1.2. Những năm sau 1986.
2.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Những đánh giá chung.
2.2.2. Những thành tựu đã đạt được.
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÓ.
2.3.1. Những vấn đề tồn tại.
2.3.2. Nguyên nhân của tình trạng đó
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH.
3.1. TẠO MÔI TRƯỜNG KINH DOANH THUẬN LỢI
3.2. NHÀ NƯỚC CẦN CÓ NHỮNG BIỆN PHÁP HỖ TRỢ KINH TẾ TƯ NHÂN.
3.3 PHÁT TRIỂN NHỮNG MỐI QUAN HỆ HỢP DOANH
3.4. HƯỚNG KINH TẾ TƯ NHÂN PHÁT TRIỂN THEO CON ĐƯỜNG TƯ BẢN NHÀ NƯỚC.
3.5. ĐỔI MỚI CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY KINH TẾ TƯ NHÂN PHÁT TRIỂN.
3.6. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-34371/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hức hợp doanh. Năm 1952, sản lượng của kinh tế tư nhân chiếm 5,7% sản lượng quốc dân. Nhưng sau cách mạng văn hoá 1966, tất cả các doanh nghiệp tư nhân phải đóng cửa. Kinh tế tư nhân không tồn tại trong giai đoạn từ 1966-1979.
Cuối 1988, Trung Quốc có rất nhiều doanh nghiệp tập thể nhưng thực chất là sở hữu tư nhân. Đó là những “ doanh nghiệp đội mũ đỏ” với mục đích núp dưới danh nghĩa tập thể để tránh những ngăn cấm từ phía chính phủ và những phân biệt về tư tưởng hệ. Năm 1988 đánh dấu sự thừa nhận chính thức doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc. Vào tháng 4-1988 đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc đã thông qua hiến pháp sửa đổi, điều 11 của Hiến pháp này được sửa như sau: “ Nhà nước Trung Quốc cho phép kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển trong phạm vi luật pháp quy định. Kinh tế tư nhân là một thành phần bổ sung cho kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo vệ quyền và thu nhập hợp pháp của doanh nghiệp tư nhân, có sự hướng dẫn, giám sát, điều chỉnh đối với kinh tế tư nhân.
Từ đó đến nay, Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa đã dưa ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển và trở thành bộ phận quan trọng trong nền kinh tế. Qua đó, đề ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Phải giải phóng được tư tưởng về sự tiêu cực phát triển kinh tế tư nhân đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cuộc tranh cãi kéo dài về mặt lý luận rằng kinh tế tư nhân phát triển liệu có làm lệch hướng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc hay không? Nhưng cuối cùng Hiến pháp sửa đổi năm 1999 đã chính thức thừa nhận tầm quan trọng tương đương nhau của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế nhà nước.
Thông qua chính sách và pháp luật, Nhà nước phát huy thế mạnh, hạn chế được mặt trái của kinh té tư nhân và hướng nó vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Tháo gỡ được quan điểm kinh tế tư nhân không đối lập với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là cơ sở cho việc giải toả tâm lý xã hội và sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với kinh tế tư nhân, tạo niềm tin và sự an tâm cho người dân bỏ vốn đầu tư kinh doanh.
Xây dựng những chính sách và thể chế phù hợp thúc đẩy phát triển đối với doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ như: vốn, nguồn nhân lực, đất đai…
Chính phủ và các hiệp hội doanh nghiệp có vai trò quan trọng thúc đẩy hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân.
2. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN.
2.1.1. Trước những năm 1986.
Sau khi chiến thắng sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta đã bắt tay ngay vào việc phát triển kinh tế. Việt Nam đã thử áp dụng kế hoạch tập trung đối với nền kinh tế nông thôn cùng kiệt sau khi thống nhất đất nước năm 1975. Ở Miền Bắc, việc chiến tranh kết thúc và sự quen thuộc đối với nền nông nghiệp tập thể không đem lại nhiều tiến bộ, sản lượng lương thực tăng 22% trong giai đoạn từ 1974 đến 1986, chậm hơn tỷ lệ tăng dân số.Chính sách này cũng không có kết quả tốt đẹp ở miền Nam với nhưng nỗ lực tập thể hóa bị chống đối một cách tiêu cực. Tuy nhiên, việc tăng diện tích trồng các mùa vụ hàng năm lên 30% thông qua những đầu tư vào hệ thống thủy lợi và việc đưa ra nhiều loại giống cải tạo đã đẩy sản lượng gạo năm 1986 tăng mạnh thêm 39% so với năm 1975. Dù vậy lương thực vẫn bị thiếu hụt và lạm phát tăng nhanh. Sản lượng lúa tăng 28% nhưng do dân số trong giai đoạn này tăng 27% nên hầu như không có chút cải thiện nào đối với sản lượng gạo tính theo đầu người. Điều đó hoàn toàn không gây ấn tượng đối với một quốc gia phục hồi từ chiến tranh.
Đặc biệt ở thời kỳ này, kinh tế tư nhân được coi là bộ phận đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa, vì vậy nằm trong diện cải tạo và tiến tới xóa bỏ. Nhà nước tiến hành cấm các hình thức kinh doanh hộ gia đình, tập trung lại hợp tác xã. Mọi cá nhân trước đây từng làm ăn buôn bán đều bị nghi ngờ là phần tử phản động, có tư tưởng chống đối cách mạng.
2.1.2. Những năm sau 1986.
Sau năm 1986, nhận thức được những sai lầm đã mắc phải trong thời kỳ đầu xây dựng đất nước Đảng và Nhà nước ta đã đưa đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.Và có thể nói đó là một thành công lớn của nước ta, đổi mới đã đưa Việt Nam từ một nước cùng kiệt lên một nước đang phát triển hàng đầu. Đổi mới đã giải phóng các lực lượng sản xuất trong toàn bộ dân chúng và trên khắp đất nước, cải thiện hầu hết mọi khía cạnh của đời sống cho hầu hết tất cả mọi người.
Nhưng trong những năm đầu của đổi mới kinh tế tư nhân vẫn không được thừa nhận đúng vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế. Kinh tế tư nhân vẫn bị coi là thành phần tư bản, là thành phần chống phá chủ nghĩa xã hội nên vẫn chưa có điều kiện để phát triển cho xứng với tiềm năng vốn có. Nhà nước vẫn chưa đưa ra những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Nên trong giai đoạn này sự phát triển của kinh tế tư nhân rất mờ nhạt, không có gì nổi bật.
Đến đại hội Đảng lần thứ IX, thấy được tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng và Nhà nước đã nhận rõ vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của đất nước. Đại hội Đảng khẳng định: “Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển rộng rãi, không hạn chế quy mô hoạt động trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh có lợi cho quốc kế dân sinh. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển”, “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi”, “kinh tế cá thể tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị được nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển năng động, có hiệu quả”. Những chính sách đó đã được biểu hiện cụ thể qua sự tăng trưởng các doanh nghiệp tư nhân trên mọi lĩnh vực kinh tế.
Việc “tư nhân hóa” trong lĩnh vực nông nghiệp là một thành công đáng ngạc nhiên, góp phần làm giảm đói cùng kiệt nhiều hơn bất cứ điều gì khác trong thập niên đầu của đổi mới. Tỷ lệ cùng kiệt đói giảm từ khoảng 3/4 xuống dưới 1/4 sau hai thập kỷ, bất chấp sự sụp đổ của Liên bang Xô viết- đối tác viện trợ và thương mại chính của Việt Nam.
Tiếp đó là quyết định năm 1999 và được triển khai vào tháng 1-2000 về việc giảm các rào cản pháp luật đối với công ty tư nhân là một quyết định quan trọng, có thể coi đây là quyết định lớn nhất kể từ sau các cải cách nông nghiệp cuối những năm 1980. Một danh nhân giờ không cần xin sự chấp thuận của một cán bộ để khởi đầu hoạt động kinh doanh hợp pháp nữa mà chỉ còn đăng ký và nộp đơn. Tất nhiên là điều đó cũng không hẳn dễ dàng nhưng các cuộc khảo sát cho thấy thời gian, tiền bạc và tình trạng không rõ ràng xung quanh việc đăng ký kinh doanh mới đã giảm đáng kể. Trong giai đoạn từ 1991-1999 chỉ có duới 5.000 doanh nghiệp mới đăng ký hàng năm, cò...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status