Quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ chồng - pdf 13

Download Tiểu luận Quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ chồng miễn phí



Luật HN&GĐ cũng quy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ, chồng, tuy nhiên, các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng lại không được luật dự liệu, trừ trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi li hôn (điều 95). Điều này đã dẫn tới những cách hiểu không thống nhất khi áp dụng luật trong từng trường hợp cụ thể. Trước đây, theo quy định tại điều 17 Luật HN&GĐ 1986 thì khi một bên vợ, chồng chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng “thì chia đôi”, phần tài sản của người chết được thừa kế được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế; hay theo quy định tại điều 18 luật này; khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên có yêu cầu và có lý do chính đáng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại điều 42 (tức là các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi li hôn cũng được áp dụng trong trường hợp này). Mặc dù điều 29, 30, 31 Luật HN&GĐ năm 2000 không dự liệu về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng, nhưng theo quy định của pháp luật từ trước đến nay, trong các trường hợp cần chia tài sản chung của vợ chồng thì nguyên tắc chia đôi tài sản luôn được áp dụng trước tiên. Nguyên tắc này xuất phát từ đặc điểm tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất, trong đó “kỉ phần” của mỗi bên là bằng nhau. Do vậy, cần bổ sung vào quy định tại điều 29, 30, 31 về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng là chia đôi tài sản chung. Trong trường hợp này là chia “bình quân”, áp dụng cho tất cả các cặp vợ chồng trong thực tiễn, không phải căn cứ vào công sức đóng góp của vợ, chồng trong việc tạo dựng tài sản chung.
Chế định nghĩa vụ tài sản giữa vợ chồng giúp vợ chồng thực hiện các quyền sở hữu của mình trong các quan hệ tài sản một cách cụ thể.
Thứ hai chế định nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng tạo cơ sở pháp lý phân định rõ ràng trách nhiệm của các bên vợ chồng trong quan lý, sử dụng và định đoạt tài sản trong gia đình. Đồng thời nó tạo điều kiện để vợ chồng chủ động tham gia vào các giao dịch dân sự và thương mại, bảo đẩm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình cũng như của cá nhân vợ hay chồng. Qua đó bảo đảm được lợi ích của cộng đồng và xã hội.
Thứ ba chế đinh nghĩa vụ tài sản giữa vợ chồng cũng tạo cơ sở pháp lý trong giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng, giúp người có quyền xác định được nghĩa vụ mà vợ chồng phải thực hiện được bảo đảm bằng tài sản chung hay tài sản riêng của một bên vợ hay chồng. Tức là bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền khi vợ chồng là người có nghĩa vụ.
Trước hết, do tính cộng đồng hợp nhất của quan hệ hôn nhân, nên để bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của gia đình, thỏa mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần của vợ chồng và để thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; chăm sóc, nuôi dưỡng các con…. Thì cần có tài sản, tiền bạc của vợ chồng. Vì thế, bên cạnh đời sống tình cảm, sự yêu thương gắn bó giữa vợ và chồng không thể không nói đến vấn đề tài sản của vợ và chồng. Mặt khác, cũng để bảo đảm đời sống chung của gia đình, đáp ứng các nhu cầu về vật chất, tinh thần của vợ chồng, chăm sóc, giáo dục con cái thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng không thể chỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình mà cần thiết phải có sự trao đổi, quan hệ giao dịch với người khác. Có thể nói, chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng thường xuyên, hàng ngày. Do đó, nếu nhà làm luật không dự liệu “cách xử sự” theo quy định chung thì khó lòng kiểm soát, định hướng trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng. Pháp luật cần định rõ khi sử dụng tài sản, tiền bạc của vợ chồng, nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình thì trường hợp nào giao dịch đó cần có sự đồng ý, thỏa thuận của vợ chồng, trường hợp nào được coi là sự thỏa thuận mặc nhiên của cả hai vợ chồng khi chỉ một bên vợ chồng trực tiếp sử dụng, định đoạt tài sản riêng của vợ chồng để kí kết hợp đồng với người khác.
Thứ hai, pháp luật có sự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng thì vợ, chồng mới biết được để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình liên quan đến tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân. Ví dụ các căn cứ, nguồn gốc, phạm vi các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng hay tài sản riêng của vợ chồng; theo đó vợ, chồng thực hiện quyền sở hữu đối với từng loại tài sản theo luật định nhằm đảm bảo lợi ích chung của gia đình, hay nhu cầu của bản thân vợ, chồng.
Thứ ba việc vợ, chồng sử dụng, định đoạt tài sản của mình nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình …luôn có liên quan đến quyền lợi của người khác khi họ kí kết các hợp đồng liên quan tới tài sản của vợ chồng. Theo luật định, người thứ ba tham gia giao dịch cần biết rằng trường hợp nào hợp đồng đó được bảo đảm thực hiện từ tài sản chung của vợ chồng hay bằng tài sản riêng của vợ chồng nhằm bảo đảm các quyền lợi chính đáng cho mình.
Thứ tư, việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ, chồng với nhau và với người khác. Ví dụ, giải quyết về những món nợ mà vợ chồng vay chung vì lợi ích chung của gia đình hay mỗi bên vợ, chồng vay riêng để sử dụng vào mục đích riêng. Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng quy kết theo trách nhiệm (nghĩa vụ) chung của vợ chồng hay nghĩa vụ riêng của vợ chồng phải thanh toán món nợ đó. Theo từng trường hợp chia tài sản chung khi có yêu cầu của vợ, chồng; Tòa án áp dụng các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng, bảo đảm quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ chồng cũng như quyền lợi chính đáng của những người có lợi ích liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG CHƯA PHÙ HỢP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA.
Kể từ ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực thi hành cho đến nay, những quy định của Luật điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng là cơ sở pháp lý để vợ chồng thực hiện quyền sở hữu của mình đối với tài sản chung, tài sản riêng; là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau và với những người khác. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng đã ban hành một số văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu những quy định điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000, thực tiễn áp dụng luật trong những năm qua cho thấy việc quy định những vấn đề về quan hệ tài sản của vợ chồng mà luật điều chỉnh hiện nay là chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế hiện nay ở nước ta. Những vướng mắc này thể hiện ở một số vấn đề chính đó là xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng; xác định tài sản chung của vợ chồng như thế nào là có giá trị lớn; bảo đảm có sự thỏa thuận, bàn bạc của cả hai vợ chồng khi định đoạt tài sản đó (thể hiện theo ý chí của vợ chồng hay bằng văn bản khác); vấn đề phân biệt các loại nghĩa vụ chung hay nghĩa vụ riêng của vợ chồng trong các trường hợp đồng vay nợ để từ đó quy trách nhiệm (nghĩa vụ) thanh toán món nợ đó từ tài sản chung của vợ chồng hay từ tài sản riêng của vợ chồng; về các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng chưa được sự dự liệu của cụ thể, thống nhất…
Về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng: Đối với các hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng, trong luật cần được dự liệu cụ thể để thống nhất áp dụng. Cho đến nay vẫn có hai quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất xét dưới góc độ luật dân sự cho rằng chỉ chủ sở hữu tài sản mới có quyền thu hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó. Vì vậy phải coi hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ chồng. Tuy nhiên trong lĩnh vực HN&GĐ, do tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân, vợ chồng cùng chung sức, chung ý chị tạo dựng tài sản chung nhằm...


06o68QpG2VTtpoB
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status