Tiểu luận Phật giáo và những giá trị, hạn chế và ảnh hưởng đến con người xã hội Việt Nam - pdf 13

Download Tiểu luận Phật giáo và những giá trị, hạn chế và ảnh hưởng đến con người xã hội Việt Nam miễn phí



Mục lục
A. Đặt vấn đề . .1
B. Nội dung
1 Tìm hiểu chung về Phật giáo 2
1.1. Sự ra đời của Phật giáo . 2
1.2 Tìm hiểu chung về tư tưởng của phật giáo. 3
 
1.2.1 Nền tảng cuả Phật giáo.3
1.2.2 Giáo lí chung của Phật giáo.4
2. Điểm tích cực của Phật giáo.4
2.1 Điểm tích cực trong nhân sinh quan.4
2.2 Điểm tích cực trong lí luận triết học.8
3. Hạn chế của Phật giáo . .9
3.1 Hạn chế chủ quan.9
3.2 Hạn chế khách quan.10
4. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống người Việt.10
4.1 Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng đạo lí .10
4.1.1 Về tư tưởng .11
4.1.2 Về đạo lí .12
4.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hoá người Việt 14
 
D. K ết luận .16
 
 
 
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-35028/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

giữ một thế sinh hoạt riêng và phân biệt sâu sắc giữa các giai cấp kiếp người. Trong khi những người Bà la môn có uy tín tuyệt đối trong trong đám quần chúng và hưởng rất nhiều đặc quyền thì giai cấp tiện nô lại sống cuộc sống cơ cực lầm than, không có quyền ăn nói cũng như đóng góp ngang hàng với mọi người. Xã hội ấn Độ thời cổ đại là đầy rẫy bất công như vậy.
Nhìn rõ được cảnh khổ của chúng sinh, Đức phật thích ca-vốn là Thái tử nước này dã quyết xuất gia tầm đạo để giảI thoát được khổ đau cho con người trong xã hội. Ngài để lại vương triều và và gia đình vì theo ngài có cách khác để làm cuộc sống nhân dân thoát khỏi lầm than chứ không phảI cách cai trị cứng nhắc. Ròng rã sáu năm tu hành khổ hạnh trong rừng sâu và 49 ngày nhập định dưới cây bồ đề, Đức phật đã giác ngộ được đạo quả vô - thượng, chính - đẳng, chính - giác. Bánh xe phật pháp bắt đàu lăn chuyển lần đầu tiên tại vườn lộc uyển để độ cho năm người bạn đồng tu với ngài lúc trước và họ đều chứng quả A la hán. Sau khi Phật nhập diệt, giáo pháp của ngài được các chúng đệ tử kết tập lại thành giáo điển qua bốn lần diễn ra tại những địa điểm và thời gian khác nhau.
Phật giáo từ Ấn Ðộ du nhập Việt Nam đã trên hai ngàn năm. Ngay từ rất sớm, Phật giáo đã được tiếp nhận và trở thành một tư tưởng chủ đạo trong nền văn hóa dân tộc, dĩ nhiên là sau khi đã bản địa hóa Phật giáo. Suốt hơn hai ngàn năm lịch sử, Phật giáo luôn đồng cam cộng khổ với vận mệnh thăng trầm của xứ sở, trong công cuộc chống ngoại xâm cũng như sự nghiệp dựng nước, mở mang bờ cõi, đánh bạt âm mưu xâm lăng và nô dịch về văn hóa của thế lực phương Bắc trong nhiều giai đoạn.
1.2 Tìm hiểu chung về tư tưởng của phật giáo
1.2.1Nền tảng cuả Phật giáo
Tứ Diệu Đế mà chính Đức Phật đã khám phá và truyền dạy thế gian là đặc điểm chánh yếu mà cũng là nền tảng vững chắc của Phật Giáo.
Bốn Chân Lý Thâm Diệu ấy là Khổ (lý do tồn tại của Phật Giáo ), nguồn gốc của sự khổ (ái dục), chấm dứt sự khổ (Niết Bàn, mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo), và con đường "Trung Đạo".
Ba chân lý đầu tiên là phần triết lý của Phật Giáo. Chân lý thứ tư là phần luân lý căn cứ trên triết lý ấy. Tất cả bốn, gồm trọn vẹn giáo lý của Đức Phật, đều tùy thuộc nơi cơ thể vật chất này. Đây là những sự kiện hoàn toàn dính liền với con người và những chúng sanh khác, những sự kiện hiển nhiên, không còn tranh luận gì nữa.
Phật Giáo nằm vững trên nền tảng đau khổ. Mặc dầu nhấn mạnh vào sự hiện hữu của đau khổ, Phật Giáo không phải là một giáo lý bi quan. Phật Giáo không hoàn toàn bi quan, cũng không hoàn toàn lạc quan, mà chỉ thực tiễn. Người ta sẽ có lý do để chủ trương rằng Phật Giáo là bi quan nếu giáo lý nµy chỉ đề cập d«ng dài đến trạng thái đau khổ mà không vạch ra con đường để thoát khổ và tiến đạt hạnh phúc trường cửu. Đức Phật đã nhận ra tính cách phổ thông của sự khổ và kê liệt một phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh chung của nhân loại. Theo Đức Phật Niết Bàn, sự chấm dứt đau khổ, là hạnh phúc cao thượng nhất mà con người có thể quan niệm.
Giáo lí chung của Phật giáo
Phật giáo gồm một hệ thống triết lí đa diện, cống hiến cho xã hội loài người mặt an sinh và tu chứng. Mặt an sinh xã hội, Phật giáo chủ trương thế giới đại đồng huynh đệ trong tình tương thân tương ái, còn về mặt tu chứng, với phương pháp tu hành đạt đến giảI thoát khỏi luân hồi,sinh tử để chứng nhập vào cảnh niết bàn tịch tịch an vui.
Phật giáo vì thế được quan niệm như một tôn giáo, một triết lí sống thực, một siêu hình học hay một mớ giáo điều mê tín dị đoan như người duy vật nhận xét thì Phật giáo vẫn giữ được cương vị của nó trên bình diện khách quan. Vì chân lí không bao giờ thay đổi trước bất kì thế lực hay khuynh hướng chính trị nào. Điều này chúng tỏ giáo pháp của đạo Phật suốt 2500 năm lịch sử vẫn giữ được địa vị độc tôn mà không bị chi phối bởi không gian và thời gian. Phật giáo đem lại cho con người sự thoải mái trong đời sống nội tâm mà không bị quay quồng trong đời sống văn minh vật chất.
2.Những điểm tích cực của Phật giáo
2.1 Điểm tích cực trong nhân sinh quan
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
Thứ nhất, đặc điểm của Phật Giáo là “In như sự thật”: Lý thuyết, phương pháp cùng kết qủa đều hợp lý, đều như thật. Phật Giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy. Đạo Phật chỉ thấy và chỉ nói những sự thật mà sự vật có, không thêm không bớt. Đạo Phật, nhân đó, cấm đoán những tín ngưỡng và những hành động không phát sinh từ sự hiểu biết như thật, luôn theo, đạo Phật không công nhận những kết qủa của tín ngưỡng mê mờ, hành động manh động là hợp lý. Cho nên đạo Phật cũng gọi là Đạo Như Thật.
Đặc điểm thứ hai là “tôn trọng sự sống”. Không sát sanh, ăn chay, là những điều tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy. Đạo Phật xem sự sống trên tất cả. Hết thảy cái gì gọi là có giá trị là phải bảo vệ sự sống ấy. Giết sự sống để nuôi sự sống là mê muội mà vì tham sống nên hại sự sống cũng là vô minh. Cho nên tôn trọng sự sống không những bằng cách giúp nhau để sống còn, mà còn có khi phải hy sinh sự sống để bảo vệ sự sống, nghĩa là có khi tiêu cực như ăn chay để cứu muôn loài, có khi tích cực như “thay khổ cho chúng sanh” để cứu vạn loại. Đạo Phật đặc biệt chú trọng và nêu cao chủ nghĩa lợi tha, nhưng chữ lợi ấy là phải hướng về mục đích tôn trọng sự sống.
Đặc điểm thứ ba của đạo Phật là chỉ thừa nhận sự “tương quan sinh tồn”. Đạo Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chứ không thể biệt lập. Phật tử không thấy, không tạo nên một đối phương. Vũ trụ là một lò tương quan; không có gì là trung tâm, không có gì là phụ thuộc, hay là ngược lại. Bởi thế cho nên phân ly là tự tạo một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối. Chiến đấu phải là một hành động vì bảo vệ sự sinh tồn mà bất đắc dĩ phải áp dụng trong trường hợp bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy thành sự tuyệt đối cần thiết trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở thành chiến tranh.
Đặc điểm thứ tư của đạo Phật là xác nhận “người là trung tâm điểm của xã hội loài người”. Đạo Phật không nói duy tâm, không nói duy vật, mà tất cả đều do người phát sinh và đều phát sinh vì người. Kết luận này thật tế ở đâu cũng rõ rệt cả. Trên thế giới loài người này không có gì tự nhiên sinh ra hay từ hư không rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động của con người tạo thành. Năng lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui, tiến hóa hay thoái hóa, là đều do con người d
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status