Tiểu luận Phân tích lý luận giá trị lao động của trường phái cổ điển tư sản Anh, Mác - pdf 13

Download Tiểu luận Phân tích lý luận giá trị lao động của trường phái cổ điển tư sản Anh, Mác miễn phí



D.Ricardo xem xét lại lý luận giá trị của A.Smith, gạt bỏ những chỗ thừa và mâu thuẫn trong lý thuyết kinh tế của A.Smith. Trong hai định nghĩa của A.Smith, D.Ricardo cho rằng “ giá trị do lao động hao phí quyết định là đúng “ còn “ giá trị lao động mà người ta có thể mua được hàng hoá này quyết định “ là không đúng. Theo ông, không chỉ trong ngành sản xuất hàng hoá giản đơn mà ngay cả trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, giá trị vẫn do lao động quyết định. Ông chỉ ra rằng, cơ cấu gia trị hàng hoá phải là C+V+M chứ không thể loại C ra khỏi hàng hoá như A.Smith được. Tuy nhiên ông vẫn chưa phân tích được sự dịch chuyển C vào sản phẩm diễn ra như thế nào. Ông đã có ý định quy lao động giản đơn và lao động phức tạp rồi quy lao động giản đơn thành lao động phức tạp.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-35422/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Phân tích lý luận giá trị lao động của trường phái cổ điển tư sản anh. Mác đã kế thừa và phát triển lý luận này như thế nào
Trong bối cảnh vào cuối thế kỷ XVIII, ở các nước Anh và Pháp, học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Vào thời kỳ này sau khi tích luỹ được một số lớn tiền tệ, giai cấp tư sản tập trung vào phát triển lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, các công trường thủ công trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, diễn ra việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành giai cấp vô sản và chủ chiếm hữu ruộng đất. Song song với đó là sự tồn tại của chủ nghĩa phong kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà còn làm sâu sắc hơn mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa phong kiến. Bên cạnh đó, nếu thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, người ta chỉ tập trung vào khâu lưu thông thì thời kỳ này đã chuyển dần sang sản xuất. Nhiều vấn đề kinh tế được đặt ra của quá trình sản xuất vượt ra ngoài giới hạn giải thích của lý thuyết kinh tế trọng thương. Điều này phải có lý thuyết kinh tế soi đường và học thuyết kinh tế cổ điển Anh ra đời mà đại biểu chủ yếu là các nhà kinh tế học William Petty, Adam Smith và David Ricardo. Trong phạm vi bài này chúng ta chỉ nói đến quan điểm về giá trị lao động của ba nhà kinh tế học cổ điển này.
Thứ nhất là quan niệm về giá trị lao động của William Petty ( 1623-1687 ). Ông là một con người học rộng biết nhiều và sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, có trình độ tiến sĩ vật lý, là người phát minh ra máy móc, là đại địa chủ đồng thời là nhà đại công nghiệp. Ông là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học, gọi là khoa học tự nhiên tức là tôn trọng và thừa nhân các quy luật khách quan, vạch ra mối liên hệ phụ thuộc, nhân quả giữa các sự vật hiện tượng. Về lý thuyết giá trị lao động, ông có công nêu ra nguyên lý của giá trị lao động. Ông đưa ra ba phạm trù về giá cả hàng hoá trong tác phẩm “ bàn về thuế khoá và lệ phí “. Đó là giá cả tự nhiên, giá cả nhân tạo và giá cả chính trị.
Thế nào là giá cả tự nhiên? Ông viết “ một người nào đó, trong thời gian lao động khai thác được 1ounce bạc và cùng thời gian đó sản suất được 1 barrel lúa mỳ thì 1 ounce bạc được coi là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mỳ. Nêu nhờ mỏ quặng phong phú tài nguyên hơn thì với thời gian lao động nói trên, bây giờ khai thác được 2 ounce bạc thì 2 ounce bạc này là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mỳ. Như vậy, giá cả tự nhiên ( giá trị hàng hoá ) là do lao động hao phí của người sản suất tạo ra và vì vậy giá cả tự nhiên quyết định giá trị sản phẩm.
Nếu giá cả tự nhiên là giá trị của hàng hoá, thì giá cả nhân tạo là giá cả thị trường của hàng hoá. Ông viết “ tỷ lệ giữa lúa mỳ và bạc chỉ là giá cả nhân tạo chứ không phải là giá cả tự nhiên “. Ông cho rằng, giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung cầu trên thị trường.
Về giá cả chính trị, ngoài yếu tố lao động hao phí nó còn phụ thuộc vào quan điểm chính trị và bối cảnh xã hội vì vậy nó là cơ sở quyết định giá cả thị trường của sản phẩm. Vì vậy, chi phí lao động trong gia cả chính trị cao hơn chi phí lao động trong giá cả tự nhiên ( giá trị ) bình thường.
Ông cũng đạt vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao động phức tạp, so sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình của nhiều năm để ta loại trừ tình trạng ngẫu nhiên. Như vậy, ông là người đầu tiên thấy được cơ sở của giá cả tự nhiên ( giá trị ) là lao động hao phí, thấy được mối quan hệ giữa lượng giá trị và năng suất lao động. Có thể nói ông là người đầu tiên đặt nền móng cho lý luận giá trị lao động. Nhưng ông vẫn lẫn lộn hay chưa phân biệt được lao động tạo ra giá trị sử dụng và lao động tạo ra giá trị. Mặt khác ông còn đưa ra luận điểm là “ lao động là cha còn đất đai là mẹ của của cải “. Về phương diện của cải vật chất, đây là sáng kiến vĩ đại của ông. Nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị lao động khi kết luận “ lao động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm “ tức là lao động và đất đai là nguồn gốc của giá trị ( giá cả tự nhiên ). Ông đã lẫn lộn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng với lao động có tư cách là nguồn gốc của giá trị ( tức là ông đã đồng nhất lao động cụ thể với lao động trừu tượng. Đứng về phương diện giá trị thì đây là quan diểm sai lầm. Điều này là mầm mống của các lý thuyết nhân tố sản xuất tạo ra giá trị sau này.
Tuy nhiên ông vẫn chưa phân biệt được các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi và giá cả. Ông vẫn còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương nên ông chỉ giới hạn lao động tạo ra giá trị trong lao động khai thác vàng và bạc, chính vì vậy mà ông khẳng định rằng muốn xác định giá trị của các vật phẩm thì phải đem so sánh lao động hao phí làm ra nó và hao phí làm ra bạc và vàng ( ông là người lấy bạc và vàng làm chất liệu cho tiền tệ ). Ông chỉ thừa nhận lao động khai thác bạc là nguồn gốc của giá trị, còn giá trị hàng hoá khác được xác định nhờ quá trình trao đổi với bạc.
Thứ hai, phải nói tới lý thuyết giá trị lao động của Adam Smith (1723-1790 ). So với William Petty và trường phái trọng nông thì lý thuyết giá trị lao động của Adam Smith có một bước tiến đáng kể. Ông đã chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động là thước đo cuối cùng của giá trị. Ông đã phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa giá trị trao đổi và giá trị sử dụng đồng thời khẳng định: giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Ông bác bỏ quan điểm cho rằng tính ích lợi quyết định giá trị trao đổi mà A.R.J. Turgot ủng hộ. Khi phân tích giá trị hàng hoá, ông cho rằng giá trị được biểu hiện trong giá trị trao đổi hàng hoá, trong quan hệ số lượng với hàng hoá khác, còn trong nền sản suất hàng hoá phát triển, nó được biểu hiện ở tiền. Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá trị hàng hoá, trong cùng một thời gian, lao động chuyên môn phức tạp sẽ tạo ra một lượng giá trị nhiều hơn so với lao động giản đơn hay không phức tạp.
Ông đưa ra hai định nghĩa về giá cả: giá cả tự nhiên ( giá trị hàng hoá ) và giá cả thị trường. Về bản chất, giá cả tự nhiên là biểu hiện tiền tệ của giá trị. Ông cho rằng, nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó phù hợp với những gì cần thiết cho thanh toán về địa tô, tiền lương công nhân, lợi nhuận cho tư bản được chi phí cho khai thác, chế biến, đưa ra thị trường thì có thể nói hàng hoá được bán với giá cả tự nhiên, còn giá cả thực tế mà qua đó hàng hoá được bán gọi là giá cả. Nó có thể cao hay thấp hơn hay trùng với giá cả tự nhiên. Theo ông giá cả tự nhiên mang tính chất khách quan còn giá cả thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status