Đánh giá quy trình thiết kế đề thi trắc nghiệm khách quan tại Khoa Khoa học Tự nhiên và Xã hội - Đại học Thái Nguyê - pdf 13

Download Luận văn Đánh giá quy trình thiết kế đề thi trắc nghiệm khách quan tại Khoa Khoa học Tự nhiên và Xã hội - Đại học Thái Nguyê miễn phí



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đềtài 1
2. Mục đích nghiên cứu của đềtài 3
3. Nhiệm vụnghiên cứu của đềtài 3
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu 3
5. Câu hỏi nghiên cứu/ giảthuyết nghiên cứu của đềtài 3
5.1. Câu hỏi nghiên cứu 3
5.2. Giảthuyết nghiên cứu 4
6. Khách thểvà đối tượng nghiên cứu 4
6.1. Khách thểnghiên cứu 4
6.2. Đối tượng nghiên cứu 4
7. Phương pháp nghiên cứu 4
7.1. Nghiên cứu lý thuyết 4
7.2. Nghiên cứu thực nghiệm 4
7.3. Phương pháp Toán học 4
8. Cấu trúc của luận văn 5
CHƯƠNG 1. CƠSỞLÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN 6
1.1. Lịch sửvấn đềnghiên cứu 6
1.1.1. Trên thếgiới 6
1.1.2. Việt Nam 8
1.2. Các khái niệm cơbản về đo lường và đánh giá trong giáo dục 11
1.3. Phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá 15
1.3.1. Kiểm tra đánh giá kết quảhọc tập 15
1.3.2. Mục đích, ý nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá KQHT 16
1.3.3. Phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá 18
1.4. Quy trình xây dựng đềthi và ngân hàng câu hỏi TNKQ 22
1.4.1. Quy trình xây dựng đềthi TNKQ 22
1.4.2. Ngân hàng câu hỏi TNKQ 26
1.5. Kỹthuật xây dựng các câu hỏi TNKQ 27
1.5.1. Loại đúng – sai (True or False) 27
1.5.2. Loại ghép đôi (Matching items) 29
1.5.3. Loại điền khuyết (Supply item) 30
1.5.4. Loại nhiều lựa chọn (Multi choice questions - MCQ) 31
1.5.5. So sánh trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tựluận 35
1.6. Phân tích đánh giá câu hỏi và bài trắc nghiệm 37
1.6.1. Mục đích phân tích câu hỏi và bài trắc nghiệm 37
1.6.2. Phương pháp phân tích câu hỏi theo lý thuyết khảo thí hiện đại 38
1.6.3. Một sốyêu cầu thống kê đối với câu hỏi và bài TNKQ 45
1.7. Kết luận chương 1 50
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY TRÌNH THIẾT KẾ ĐỀTHI TNKQ
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC – ĐHTN 51
2.1. Vài nét vềtrường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên 51
2.2. Thông tin chung vềcác giảng viên tham gia khảo sát 52
2.3. Thực trạng quy trình thiết kế đềthi TNKQ tại đơn vị 54
2.3.1. Thực trạng sửdụng các phương pháp KTĐG 54
2.3.2. Thực trạng quy trình thiết kế đềthi TNKQ 56
2.3.3. Thực trạng phân tích và xửlý kết quảthi 62
2.3.4. Thực trạng chất lượng đềthi 65
2.4. Kết luận chương 2 73
CHƯƠNG 3: MỘT SỐBIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢQUY TRÌNH
THIẾT KẾ ĐỀTHI TNKQ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC - ĐHTN 74
3.1. Nguyên tắc đềxuất biện pháp 74
3.2. Một sốbiện pháp nâng cao hiệu quảquy trình thiết kế đềthi TNKQ tại đơn vị 74
3.3. Tổchức thửnghiệm biện pháp 75
3.4. Đánh giá chung của GV vềtính khảthi và hiệu quảcủa các
biện pháp đã triển khai 91
3.5. Kết luận chương 393
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤLỤC 102


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-36249/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ông thường, sau khi dạy xong một học phần với các nội dung theo đề
cương chi tiết cụ thể của học phần đó, GV nghĩ rằng sinh viên nắm vững các yêu
cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng nào thì sẽ ra đề với các câu hỏi kiểm tra vào
phần đó, cho nên sinh viên đạt được kết quả thi, kiểm tra một cách tương đối. Bởi
49
vậy, trong một học phần có những mục tiêu GV kiểm tra được sinh viên nhưng cũng
có những mục tiêu mà học phần đề ra GV không thể biết được sinh viên có đạt hay
không và đạt ở mức nào. Với cách ra đề thi kiểm tra như vậy, kết quả thu được
không phản ánh được mức độ đạt được mục tiêu về kiến thức và kỹ năng của học
phần đã quy định.
Phỏng vấn sâu các GV được biết, họ ít khi xác định mục tiêu đánh giá và xây
dựng bảng trọng số trước khi viết câu hỏi thi, các GV cho rằng điều đó là không cần
thiết vì trong quá trình dạy học và biên soạn đề họ đã biết được phần nào quan trọng
hơn. Có nhiều GV cho rằng, việc xây dựng bảng trọng số chỉ cần thiết đối với các
GV trẻ, ít kinh nghiệm.
Tóm lại, qua việc phân tích trên thấy rằng nhiều GV không xác định mục tiêu
đánh giá, không phân tích nội dung và xây dựng bảng trọng số khi biên soạn đề thi.
• Về độ bao phủ, độ khó, độ phân biệt, độ tin cậy, độ giá trị và thời gian
thi, kiểm tra.
Trong phương pháp dạy học truyền thống, GV là người truyền thụ, cung cấp
kiến thức cho sinh viên, sinh viên là người tiếp thu những kiến thức được truyền đạt.
Việc ĐGKQHT thường được thực hiện thông qua các câu hỏi do GV soạn thảo, các
câu hỏi này chủ yếu là câu hỏi tự luận, như vậy, một bài kiểm tra gồm 1 số ít câu hỏi
cho một vài vấn đề trọng tâm, vì thế sinh viên thường hay đoán mò hay học tủ một
số vấn đề chính còn các kiến thức khác thì bỏ qua. Mặt khác, có thể vì thành tích
của cá nhân, của lớp hay của trường mà đề kiểm tra thường không khó lắm, sinh
viên khá giỏi có thể dễ dàng hoàn thành mà không cần tư duy nhiều.
Trong các bài thi kiểm tra, các câu hỏi thường ở mức độ nhận thức biết và
hiểu là chính, câu hỏi ở mức độ vận dụng ít, nhưng lại có những bài thi có ít câu hỏi
lại thường đánh giá người học ở mức độ vận dụng nhiều. Bởi vậy việc ĐGKQHT
chưa thật sự khoa học và công bằng, đồng thời độ chính xác là không cao. Bài thi
với những câu hỏi ở mức độ vận dụng mà không có câu hỏi ở mức độ biết và hiểu,
nếu sinh viên đạt kết quả không cao thì chúng ta không đánh giá chính xác khả năng
và năng lực của sinh viên có đạt mục tiêu về kiến thức và kỹ năng của học phần đề
50
ra hay không? Cách cho điểm này có ưu điểm là đánh giá được khả năng bậc cao
của sinh viên khá và giỏi nhưng khó có thể phân biệt được các sinh viên có năng lực
trung bình, yếu và kém vì các em này có điểm số không chênh lệch nhau. Nếu GV
thiết kế các câu hỏi chỉ đo mức độ nhớ và hiểu thì nếu sinh viên nào học tủ hay học
theo kiểu ghi nhớ máy móc thì sẽ được điểm cao, các sinh viên học theo kiểu tư duy
lại chỉ được điểm trung bình.
Từ trước đến nay trường chưa có một lớp bồi dưỡng nào về xây dựng đề thi
theo các yêu cầu kỹ thuật, hầu hết các GV đều tự ra các đề thi tự luận, vấn đáp, thực
hành. Thời gian gần đây, các GV bắt đầu quan tâm đến loại hình câu hỏi TNKQ,
nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu và áp dụng phần nào, chưa có sự quan
tâm đúng mức và nghiên cứu sâu về loại hình này. GV nào muốn xây dựng đề
TNKQ thì tự đọc tài liệu và dựa trên các đề thi có trong tài liệu để biên soạn, việc
soạn thảo từng câu hỏi và đề thi chưa đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, sự cân đối về
thời gian và nội dung trong một đề thi là chưa đạt.
Theo kết quả điều tra có nhiều GV nhận thức rằng việc biên soạn đề thi
TNKQ sẽ cho kết quả đánh giá khách quan và công bằng, tuy nhiên vì những lý do
khác nhau mà GV vẫn hiếm khi sử dụng phương pháp TNKQ để đánh giá KQHT
của sinh viên. Phần phân tích dưới đây sẽ làm rõ các vấn đề trên:
• Lý do GV hiếm khi sử dụng phương pháp TNKQ.
Thông qua Phiếu điều tra và qua việc phỏng vấn sâu các GV cho thấy, có
nhiều lý do khiến GV hiếm khi sử dụng phương pháp TNKQ để ĐGKQHT cho SV,
tập trung vào một số lý do chính sau:
- GV gặp khó khăn khi thiết kế câu hỏi TNKQ đạt yêu cầu kỹ thuật
51
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Toán Tin Văn‐QL Hóa hc Sinh hc KHMT Tng
%
Không

Hình 2.3. Khó khăn khi thiết kế câu hỏi TNKQ chuẩn
Dữ liệu hình trên cho thấy GV ở mỗi Khoa khác nhau gặp khó khăn khi biên
soạn câu hỏi TNKQ chuẩn là khác nhau. Có 66% GV ở các khoa gặp khó khăn và
34% GV không gặp khó khăn khi biên soạn bộ câu hỏi TNKQ chuẩn. GV khoa
Toán Tin và khoa Sinh học gặp ít khó khăn nhất. Các GV cho rằng ở mỗi khoa có
các đặc thù riêng nên sử dụng các phương pháp thi khác nhau tùy theo mục đích
chương trình đào tạo và mục tiêu học phần. Nếu được tập huấn và được thường
xuyên sử dụng thì GV sẽ ít gặp khó khăn hơn.
- GV chưa được bồi dưỡng về cách xây dựng đề thi TNKQ
Thực tế nhà trường chưa tổ chức được các buổi tập huấn cho GV về kỹ thuật
xây dựng đề thi TNKQ, qua phiếu điều tra và phỏng vấn sâu cho thấy rằng nếu được
tập huấn và tiếp cận với hình thức thi TNKQ sớm thì họ sẽ áp dụng hình thức thi
này để ĐGKQHT cho SV. Mặt khác, có nhiều GV trẻ mới về trường công tác, chưa
có kiến thức và kinh nghiệm nhiều nên đây cũng chính là lý do mà các GV này
không lựa chọn phương pháp TNKQ.
- Thiếu thời gian soạn bộ câu hỏi TNKQ
Phần lớn các GV đều cho rằng để biên soạn bộ đề thi TNKQ cần rất nhiều
thời gian, cho nên chỉ có khoảng 21% GV cho rằng có thời gian biên soạn câu hỏi
TNKQ. Giải thích cho tỷ lệ trên là do một đề thi TNKQ bao gồm rất nhiều câu hỏi,
các câu hỏi đòi hỏi bao phủ toàn bộ nội dung chương trình môn học, hơn nữa, để
soạn được từng câu hỏi TNKQ, GV phải nắm vững kỹ thuật viết: cách lựa chọn
52
dạng câu hỏi, độ khó, độ phân biệt, thời gian thi… sao cho phù hợp với nội dung
chương trình của từng học phần. Bởi vậy để soạn được 1 bộ đề thi TNKQ mất rất
nhiều công sức và thời gian.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Toán Tin Văn‐QL Hóa hc Sinh hc KHMT Tng
%
Không

Hình 2.4. Thời gian soạn câu hỏi TNKQ
- Thiếu kỹ năng phân tích, ngại thay đổi:
Một số GV cho rằng họ không có kỹ năng phân tích đề thi cũng như phân
tích kết quả thi. Mặt khác, do thiếu các trang thiết bị công cụ như máy tính hay các
phần mềm chuyên dụng cho nên việc phân tích kết quả thi gặp rất nhiều khó khăn.
Một số GV khác thì lại có tâm lý ngại thay đổi, họ cho rằng các đề thi tự luận hiện
nay của họ hoàn toàn có thể đánh giá chính xác năng lực của SV nên họ không
muốn và không cần thiết kế các đề thi TNKQ…
Có những GV mặc dù đã được bồi dưỡng về xây dựng đề thi TNKQ, nhưng
do chưa có kinh nghiệm tự thiết kế nên họ sợ sự quản lý của nhà trường và khoa về
chất lượng...

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status