Tiểu luận Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - pdf 13

Download Tiểu luận Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân miễn phí



Chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình 1986 và Luật hôn nhân gia đình 2000 so với Luật hôn nhân gia đình năm 1959. Thực tế đã có trường hợp vợ chồng không muốn ly hôn mà chỉ yêu cầu chia tài sản chung để ở riêng hay vì lí do nào đó mà vợ, chồng lại muốn chia tài sản chung trong khi vẫn chung sống với nhau. Để đáp ứng nhu cầu thực tế đó, Luật hôn nhân gia đình đã quy định việc chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại giúp cho các tòa án có cơ sở pháp lý để xét xử khi có yêu cầu của vợ chồng. khoản 1, Điều 29 quy định:


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37580/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

I. Đặt vấn đề
Hôn nhân và gia đình là một ngành luật quan trọng trong hệ thống pháp luật việt nam và ngày càng có một vai trò tích cực. cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự du nhập của những giá trị văn hóa mang tính quốc tế nên các mối quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình ở Việt Nam cũng có những biến chuyển để trở nên phù hợp. Điều này đòi hỏi pháp luật cần có nhưng điều chỉnh hợp lý trên cơ sở đời sống thực tiễn.
Đề cập đến Luật hôn nhân và gia đình, phải kể đến nội dung “chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, vì đây là một vấn đề mang tính thời sự cao trong Điều kiện nền kinh tế nước ta có sự hội nhập mạnh mẽ với quốc tế và các quy định pháp luật liên quan đến tài sản có ý nghĩa vô cùng to lớn, thiết thực.
II. Giải quyết vấn đề.
1. Tài sản chung của vợ chồng.
Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể, tài sản cung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau:
- Tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân.
- Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là: tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng số mà vợ, chồng có được hay tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 như: Xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu (Điều 239); xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chon giấu, bị chìm đắm được tìm thấy (Điều 240); xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên (Điều 241); xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc (Điều 242); xác lập quyền sở hữu đối với gia gia cầm bị thất lạc (Điều 243); xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước (Điều 244).
- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên.
- Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung hay thừa kế chung.
- Tài sản mà vợ hay chồng có trước khi kết hôn hay những tài sản mà vợ hay chồng được thừa kế riêng hay được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ chồng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung hay theo pháp luật quy định là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất có thể phân chia. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. Do vậy, bình thường không thể xác định được phần tài sản nào là của vợ, phần tài sản nào là của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất, chỉ khi nào có sự phân chia tài sản chung vợ chồng thì mới xác định được phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung đó. xuất phát từ tính chất của quan hệ hôn nhân là cùng chung ý chí, cùng chung công sức trong việc tạo nên khối tài sản nhằm xây dựng gia đình, bảo đảm cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó, pháp luật quy định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng chỉ căn cứ vào nguồn gốc, thời điểm phát sinh tài sản mà không căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi người vào việc tạo dựng và phát triển khối tài sản chung đó. Có thể do điều kiện sức khỏe, đặc điểm công việc và nghề nghiệp nên sự đóng góp công sức của vợ chồng vào việc xây dựng khối tài sản chung không bằng nhau, nhưng quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung vẫn ngang bằng nhau. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do công sức của cả hai vợ chồng trực tiếp tạo ra, có thể chỉ do vợ hay chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân.
Tài sản thuộc sỏ hữu chung hợp nhất của vợ chồng do vợ, chồng làm ra bằng công sức của mỗi người từ khi họ kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt và những tài sản khác do vợ chồng thỏa thuận hay do pháp luật quy định.
Đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.
“Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.” (Khoản 2, Điều 219 Bộ luật dân sự 2005).
“Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.” (khoản 1, Điều 28, Luật hôn nhân và gia đình 2000).
quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hay là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận (Điều 28, Luật hôn nhân và gia đình).
Đối với những giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị không lớn hay để phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình thì chỉ cần một bên vợ hay chồng thực hiện hay đương nhiên coi là có sự đồng ý của bên kia. Trong trường hợp vì một lý do nào đó mà chỉ có một bên vợ hay chồng thực hiện giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhằm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hang ngày của gia đình thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới (Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình 2000). Quy định này khẳng định quyền tự chủ của vợ, chồng trong việc thực hiện các giao dịch dân sự nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình cũng chính là nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, đồng thời cũng khẳng định trách nhiệm của bên kia đối với các hành vi dân sự hợp pháp do vợ hay chồng mình thực hiện vì lợi ích chính đáng của gia đình.
vợ, chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng tài sản chung. Vợ, chồng sử dụng tài sản chung của vợ chồng đương nhiên được coi có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng.
tài sản chung của vợ chồng được chi dung để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng (Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình). Do vậy, trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung không cần căn cứ vào công sức đóng góp của vợ, chồng. trong những trường hợp vì lí do chính đáng và hoàn cảnh riêng của từng gia đình mà có thể vợ hay chồng không lao động trực tiếp tạo ra tài sản mà chỉ lao động trong gia đình như chăm sóc con, làm nội trợ…thì quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung vẫn ngang bằng với người kia. Điều đó có nghĩa là lao động của vợ chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập (Điểm a, Khoản 2, Điều 95 Luật hôn nhân gia đình). trường hợp vợ chồng sống cách xa nhau vì lí do chính đáng không ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa vụ của họ đối với tài sản chung hợp nhất.
2. Điều kiện để chia di sản chung của vợ chồng
Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ chồng về vấn đề tài sản, Luật HN&GĐ quy định các trư
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status