Tiểu luận Hoàn cảnh ra đời của tư tưởng lập hiến và sự tác động của nó tới nội dung và tính chất của các bản Hiến pháp Việt Nam - pdf 13

Download Tiểu luận Hoàn cảnh ra đời của tư tưởng lập hiến và sự tác động của nó tới nội dung và tính chất của các bản Hiến pháp Việt Nam miễn phí



Sau 21 năm ra đời và phát triển, Hiến pháp năm 1959 đã hoàn thành xứ mệnh lịch sử của mình, tạo điều kiện rất lớn cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công trong cả nước. Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975 đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do, thống nhất. Đây là điều kiện thuận lợi để đưa cả nước ta quá độ đi lên XHCN. Với hoàn cảnh đất nước không còn bị chia cắt, non sông đã thu về một mối thì yêu cầu sửa đổi hiến pháp là điều tất yếu. Trước tình hình đó, tháng 9/1975 hội nghị lần thứ XXIV của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định triệu tập hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc. Hội nghị đã quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Ngày 25/4/1976 cuộc tổng tuyển cử được tiến hành trong cả nước. Ngày 2/7/1976 Quốc hội đã thông qua các nghị quyết quan trọng và thành lập Uỷ ban dự thảo hiến pháp. Sau một thời gian thảo luận và đóng góp ý kiến ngày 18/12/1980 Quốc hội khoá VI đã nhất trí thông qua hiến pháp.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37523/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ĐỀ BÀI:
Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và tính chất của các bản Hiến pháp Việt Nam.
-----o0o-----
TRẢ LỜI:
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh toàn bộ đời sống xã hội. Mỗi một bản hiến pháp ra đời trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể mang theo dấu ấn đặc thù của mỗi quốc gia. Lịch sử lập hiến Việt Nam đã trải qua những bước ngoặt to lớn cùng với sự ra đời của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Nó đánh dấu bước phát triển trong lịch sử lập hiến Việt Nam cũng như sự tác động của hoàn cảnh lịch sử tới nội dung và tính chất của các bản hiến pháp.
Trước cách mạng tháng 8/ 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế, nhưng thực chất là bộ máy tay sai của thực dân Pháp. Bởi vậy, nước ta là một nước thuộc địa không có hiến pháp.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng tư tưởng cách mạng của các nước trên thế giới trong giới trí thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến. Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này. khuynh hướng thứ nhất của Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Bùi Quang Chiêu chủ trương xây dựng Nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa nhận sự bảo hộ của Chính phủ Pháp. khuynh hướng thứ hai của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc sau đó xây dựng hiến pháp của nhà nước độc lập vì không có độc lập, tự do thì không thể có hiến pháp thực sự. Đây cũng là khuynh hướng tiến bộ và đúng đắn nhất. Bằng những hoạt động tích cực Nguyễn Ái Quốc đã cụ thể hoá tư tưởng lập hiến của mình và tư tưởng ấy được thể hiện trong hiến pháp 1946 – hiến pháp đầu tiên của nước nhà.
1/ Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và tính chất hiến pháp 1946.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một ngày sau đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, một trong những nhiệm vụ đó là: “chúng ta phải có một bản hiến pháp dân chủ”.
Ngày 9/11/1946, sau một thời gian dài làm việc, Quốc hội đã thông qua bản hiến pháp đầu tiên với 240 phiếu thuận, 2 phiếu trống.
Vào thời điểm Quốc hội thông qua hiến pháp, thực dân Pháp đã phản bội các hiệp định đã kí kết với Chính phủ ta, chúng không ngừng khiêu khích và tấn công chúng ta bằng vũ lực, hòng lặp lại ách thống trị của chúng tại Việt Nam. Do hoàn cảnh chiến tranh mà hiến pháp 1946 không được chính thức công bố. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước. Với hoàn cảnh lịch sử như vậy, nội dung và tính chất của Hiến pháp 1946 mang những đặc thù riêng.
Hiến pháp 1946 bao gồm 70 điều chia làm 7 chương. Do đất nước có chiến tranh nên lời nói đầu của bản hiến pháp xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là: bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn, kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân tộc. Đồng thời xác định ba nguyên tắc cơ bản của hiến pháp là: đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; đảm bảo các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ của toàn dân. Toàn bộ 7 chương của hiến pháp đều được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản, chính ba nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946: dân tộc, dân chủ, nhân dân.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, hình thức nhà nước là hình thức cộng hoà. Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân thể hiện sự phát triển của tư tưởng dân chủ, đề cao tính dân tộc của Nhà nước. Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do khai sinh ra nhà nước dân chủ cộng hoà đã có sự đóng góp của bao giai tầng trong xã hội. Bởi thế Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên của ta là Nhà nước đoàn kết toàn dân không biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo (Điều 1).
Tuân thủ nguyên tắc “ Đảm bảo các quyền tự do, dân chủ”, Hiến pháp 1946 rất chú trọng đến chế độ công dân (chương II). Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân được đảm bảo các quyền tự do, dân chủ (Điều 70); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 6,7); phụ nữ được ngang quyền với nam giới về mọi phương diện; công dân được hưởng các quyền bầu cử, ứng cử, có quyền bãi miễn các đại biểu do mình bầu ra khi họ không còn xứng đáng với danh hiệu đó nữa; quyền tư hữu tài sản của công dân được bảo vệ…
Dựa trên nguyên tắc: “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”, hình thức Nhà nước theo Hiến pháp 1946 có nhiều nét độc đáo đáng chú ý. Đứng đầu Chính phủ là Chủ tịch nước có quyền phủ quyết (Điều 31 và 54). Hình thức chính thể của nước ta là sự kết hợp giữa cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị.
Mặc dù là bản hiến pháp đầu tiên của nước ta, nhưng Hiến pháp 1946 tiến bộ không kém bất cứ một bant hiến pháp nào trên thế giới. Là một bản hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu, là một bản hiến pháp mẫu mực trên mọi phương diện.
2/ Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và tính chất Hiến pháp 1959.
Tính đến thời điểm năm 1959, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra đời và phát triển được14 năm. Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tuy nhiên với tình hình đất nước và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và điều chỉnh.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 Hiệp định Giơnevơ được kí kết buộc Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời vẫn dưới sự thống trị của Mĩ và tay sai.Vì vậy đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền và việc thống nhất đất nước theo hiệp định sẽ được thực hiện sau hai năm bằng cuộc tổng tuyển cử trong cả nước do chính quyền hai miền hiệp thương tổ chức.
Ngay sau khi hất cẳng Pháp đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai đã vi phạm Hiệp định Giơnevơ từ chối hiệp thương thống nhất đất nước. Vì vậy nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là miền Bắc đi lên xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân – thống nhất đất nước. Để đáp ứng nhiệm vụ cách mạng mới, trong kì họp thứ 6 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi. Sau một thời gian bản dự thảo được đưa ra thảo luận và lấy ý kiến xây dựng ngày 1/1/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh công bố hiến pháp.
Hiến pháp 1959 gồm lời nói đầu và 112 điều chia làm 10 chương. Hiến pháp 1959 được xem là bản hiến pháp XHCN đầu tiên của nước ta trong đó qui định về chế độ kinh tế, chính trị, văn hoá- xã...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status