Tiểu luận Phân tích chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành - pdf 13

Download Tiểu luận Phân tích chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành miễn phí



Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ, giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội, Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp 1992); trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng (Điều 20 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001). Theo Nghị quyết sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 (Quốc hội thông qua tháng 12/2001) đã bỏ quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội về phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ cũng như đã bỏ quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ thực hiện quyền này khi Quốc hội không thể họp và sau đó phải đưa ra Quốc hội xem xét, quyết định tại kì họp gần nhất), do đó Chủ tịch nước cũng không còn thực hiện các quyền này nữa.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37761/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

LỜI MỞ ĐẦU
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Ở mỗi nước nguyên thủ quốc gia đều có vị trí, chức năng khác nhau tùy thuộc vào thể chế chính trị và các tổ chức nhà nước. Nhưng nhìn chung họ đều đóng vai trò là biểu tượng cho dân tộc. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992 riêng Hiến pháp 1980 Chủ tịch nước tồn tại dưới hình thức Hội đồng Nhà nước – là chế định nguyên thủ quốc gia tập thể. Vị trí, tính chất của các thiết chế này là khác nhau theo từng giai đoạn phát triển và cách thức tổ chức Nhà nước. Đã có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc tổ chức Nhà nước nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Và để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm em xin giải quyết đề tài “Phân tích chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành”.
NỘI DUNG
I. Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10.
Trong cơ chế Nhà nước ta, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau điều này được thể hiện rõ qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp 1946 và 1959, là thiết chế Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp 1980 là thiết chế Hội đồng Nhà nước, do thiết chế Hội đồng Nhà nước ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế của mình trong quá trình hoạt động nên đến kì họp thứ 11 của Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp 1992 thay thế cho Hiến pháp 1980. Và ở Hiến pháp 1992 lại quay về với thiết chế Chủ tịch nước. Mô hình này vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc gia trong thiết chế Hội đồng Nhà nước. Đồng thời cũng có thêm những điểm mới.
1. Vị trí, tính chất và trật tự hình thành.
Về vị trí, tính chất, “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 101 Hiến pháp 1992). Như vậy, cũng như trong Hiến pháp 1959 và 1980, Chủ tịch nước chỉ đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia – người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại, nhưng không đứng đầu Chính phủ như chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946. Về trật tự hình thành, “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cao công tác trước Quốc hội. Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước mới” (Điều 102 Hiến pháp 1992).
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được Hiến pháp quy định ở Điều 103 (có 12 vấn đề) và ở một số điều khoản khác có liên quan (như Điều 135, Điều 139). Có thể chia nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành 2 nhóm:
* Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại.
Đây là quyền hạn của hầu hết các nguyên thủ quốc gia ở nước ta. Cụ thể gồm:
+ Chủ tịch nước “Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hay tham gia điều ước Quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định” (Điểm 10 Điều 103 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước trực tiếp đàm phán, ký kết hay ủy quyền cho trưởng đoàn đàm phán ký kết. Chủ tịch nước phê chuẩn các điều ước thuộc quyền quyết định của mình về điều ước Quốc tế có điều khoản quy định việc phê chuẩn. Việc xin phê chuẩn điều ước Quốc tế do cơ quan đề xuất việc ký kết phối hợp với Bộ Ngoại giao đề nghị Chính phủ trình Chủ tịch nước, Chủ tịch nước xét và tiến hành phê chuẩn hay trình Quốc hội phê chuẩn. Và ở Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định này được bổ sung thêm là: Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước Quốc tế đã trực tiếp ký.
+ Chủ tịch nước “Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam cho thôi quốc tịch Việt Nam hay tước quốc tịch Việt Nam” (Điểm 11 Điều 103 Hiến pháp 1992).
+ Chủ tịch nước “Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh” (Điểm 2 Điều 103 Hiến pháp 1992). Ở đây có điểm khác với Hiến pháp 1946, Điều 49 Hiến pháp 1946 quy định Chủ tịch nước “giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc…”; từ “thống lĩnh” đã được dùng từ các Hiến pháp 1959 và 1980; “thống lĩnh” khác với “tổng chi huy” ở chỗ “thống lĩnh” không phải trực tiếp chỉ huy mà chỉ là phụ trách chung. Hội đồng Quốc phòng giúp Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh. Chủ tịch nước thành lập Hội đồng Quốc phòng và trình Quốc hội phê chuẩn.
+ Chủ tịch nước “Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hay động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hay ở từng địa phương” (Điểm 6 Điều 103 Hiến pháp 1992). Trong Điều 91 Điềm 10 của Hiến pháp 1992 có quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội “Quyết định tổng động viên hay động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hay ở từng địa phương”. Vậy 2 điểm này cần được hiểu như sau: Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định tổng động viên… quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp. Trong Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, điểm này được bổ sung thêm: Trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hay ở từng địa phương.
+ Chủ tịch nước “Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước” (Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp 1992).
+ Chủ tịch nước “Quyết định đặc xá” (Điểm 12 Điều 103 Hiến pháp 1992)
+ Chủ tịch nước “Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hay của Ủy ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá” (Điểm 5 Điều 103 Hiến pháp 1992). Vậy “đặc xá” và “đại xá” là gì? Đại xá là việc tha miễn truy tố đối với một số loại tội nhân một dịp long trọng. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công bố. Đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hay miễn hình phạt còn lại đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt: già cả, có công lao, ốm đau nặng…. Việc đặc xá này thường được thực hiện nhân dịp lễ Tết hay kết hợp với việc tha tù trước thời hạn và giảm án.
* Nhóm nhiệm v
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status