Ý nghĩa của vốn và lý do tháo bỏ quy định về vốn pháp định - pdf 13

Download Ý nghĩa của vốn và lý do tháo bỏ quy định về vốn pháp định miễn phí



Trước đây, mặc dù pháp luật đã đặt ra mức vốn tối thiểu phải có để được thành lập doanh nghiệp, nhưng các doanh nghiệp ma vẫn mọc như nấm và tung hoành ngang dọc, chứ không cần đợi đến lúc các quy định này được tháo bỏ. Rõ ràng là, nếu ai đó có ý định lường gạt thì dù pháp luật có quy định mức vốn pháp định cũng khó lòng triệt tiêu những mưu toan của họ. Bù lại, họ sẽ tìm mọi cách để thỏa mãn các ràng buộc như là một khoản đầu tư chi phí để tìm kiếm những khoản lợi lộc phi pháp sau đó. Vì vậy, quy định của pháp luật - trong trường hợp này - chỉ mang tính hình thức và có thể tạo ra những chi phí không đáng có cho phần còn lại của xã hội.
Thời gian qua chúng ta đã thấy, có nhiều doanh nghiệp nhà nước với số vốn điều lệ lớn hơn nhiều mức vốn pháp định nhưng làm ăn không hiệu quả, phải trông chờ vào sự “che chở” của Nhà nước, trong khi đó, dù không nhiều, nhưng sự đóng góp của các thương nhân “tay không gây dựng cơ đồ” cho nền kinh tế và xã hội là không nhỏ. Đặc biệt, với một đất nước đang nghèo như chúng ta thì sự vươn lên từ nghịch cảnh càng đáng được ghi nhận, trân trọng và biểu dương.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37745/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Ý nghĩa của vốn và lý do tháo bỏ quy định về vốn pháp định
Sau một thời gian ứng dụng Luật Doanh nghiệp (từ Luật Doanh nghiệp năm 1999 cho đến Luật Doanh nghiệp năm 2005 hiện hành), có nhiều ý kiến cho rằng cần xem xét lại một số nội dung quy định trong các văn bản này1. Trong đó, dựa trên cơ sở các chức năng của vốn, nhất là chức năng bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ2, có ý kiến cho rằng, nên lặp lại quy định về điều kiện mức vốn tối thiểu khi thành lập doanh nghiệp đối với tất cả các trường hợp đầu tư kinh doanh. Cách thức tiếp cận này là hợp lý, cần được tham khảo. Tuy nhiên, theo chúng tôi, vấn đề cần được nhìn nhận từ vai trò, ý nghĩa của vốn ở từng vị trí của tất cả các bên có liên quan. Trước hết là vai trò của vốn đối với chính doanh nghiệp; thứ hai là ý nghĩa của vốn đối với các đối tác của doanh nghiệp - chủ nợ. Ngoài ra, cũng được nhìn nhận từ phía Nhà nước - với tư cách là chủ nợ lớn nhất và với chức năng điều hòa mối quan hệ giữa hai bên nói trên.
1. Đối với doanh nghiệp sở hữu vốn
Ở vị trí của doanh nghiệp, để định vị nội dung quy định của pháp luật về vốn điều lệ, ý nghĩa của vốn cần được nhìn nhận thông qua một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần có cơ chế để doanh nghiệp tự xác định quy mô vốn theo nhu cầu và quy mô kinh doanh.
Trước hết, cần phân định rõ các khái niệm: vốn điều lệ - vốn gốc - vốn chủ sở hữu, vốn pháp định - vốn tối thiểu, vốn kinh doanh và tài sản của doanh nghiệp. Trong đó, khái niệm vốn kinh doanh và tài sản của doanh nghiệp cần được xác định lại vì tuy có sự khác biệt về mặt ngữ nghĩa nhưng lại có sự đồng nhất.
Nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp là để tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh. Muốn vậy, nhà đầu tư cần có vốn và vốn kinh doanh của doanh nghiệp sẽ là toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, kể cả tài sản cố định hay tài sản lưu động. Trong những giai đoạn hoạt động tiếp sau của doanh nghiệp, khi giá trị tài sản của doanh nghiệp có tăng lên, thì vốn điều lệ của chủ sở hữu vẫn giữ ở mức cũ. Vì vậy, nhà đầu tư cần xác định rõ nhu cầu sử dụng vốn của mình khi bắt đầu tiến hành hoạt động kinh doanh để từ đó thiết lập quy mô vốn cũng như quy mô doanh nghiệp thích hợp. Nếu không làm được như vậy, có thể doanh nghiệp sau khi ra đời sẽ không có đủ vốn để hoạt động hay ngược lại, doanh nghiệp không sử dụng hết tài sản của mình cho hoạt động sản xuất thì sẽ lãng phí và chi phí làm ra sản phẩm sẽ rất cao do các khoản hạch toán chi phí, khấu hao tài sản không trực tiếp tham gia vào quy trình sản xuất.
Do đó, việc đặt ra yêu cầu về mức tối thiểu khi thành lập doanh nghiệp là không đi theo quy luật hiển nhiên của cuộc sống. Bởi vì, (i) Nhà nước đã ấn định quy mô vốn và quy mô doanh nghiệp cho nhà đầu tư trong khi chính họ mới biết được nhu cầu về vốn của mình là tới đâu. Không những thế, (ii) quan điểm pháp lý của chúng ta khi xây dựng Luật Doanh nghiệp là nhằm mở rộng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể, trong đó có quyền tự do lựa chọn mô hình và xác định quy mô kinh doanh3. Việc ấn định mức vốn pháp định vô hình trung đã khống chế quyền tự do này của doanh nghiệp. Ngoài ra, với quy định về mức vốn pháp định trước đây, chúng ta còn thấy, mức vốn pháp định đặt ra với doanh nghiệp tư nhân thường thấp hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Thực tế, đâu có phải cứ là doanh nghiệp tư nhân thì phải quy mô nhỏ, cứ là công ty thì quy mô và nhu cầu vốn lớn. Và như đã nói, (iii) việc pháp luật đưa ra mức vốn điều lệ bắt buộc, nhưng sau đó có thể doanh nghiệp sẽ không sử dụng hết nguồn vốn này, dẫn đến sự lãng phí, mà hậu quả chính doanh nghiệp phải gánh trong khi lỗi không thuộc về họ.
Thứ hai, bản thân doanh nghiệp có thể huy động vốn để thực hiện mục tiêu kinh doanh.
Như đã nói, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, vì vậy, khối tài sản được sử dụng trong kinh doanh có thể là vốn của chủ sở hữu và cũng có thể là vốn vay. Để tìm kiếm lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ tìm mọi cách để huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả, ví dụ: khi triển khai dự án mới, mở rộng quy mô kinh doanh, doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng những cách hợp pháp. Chính vì vậy, không cần thiết phải bắt doanh nghiệp có một lượng vốn lớn khi thành lập.
Bằng các công cụ phân tích của mình, lý thuyết tài chính hiện đại khẳng định rằng, các trường hợp hiệu quả kinh doanh và giá trị của doanh nghiệp tăng cao sẽ không thuộc về các doanh nghiệp chỉ biết sử dụng nguồn vốn tự có. Tùy theo tỷ lệ vốn vay được sử dụng để tạo ra hiệu quả kinh doanh mà giá trị của doanh nghiệp sẽ tăng lên nhiều hay ít. Đương nhiên, lý thuyết này cũng chỉ ra mức tỷ lệ vốn vay nhất định trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp để đảm bảo được hiệu quả trong sử dụng vốn từ việc giảm thiểu chi phí sử dụng vốn và hạn chế những rủi ro mặc định khi sử dụng vốn vay. Điều đó một phần tùy thuộc vào tiềm lực nội tại của chính doanh nghiệp, phần lớn còn lại phụ thuộc ở chiến lược phát triển kinh doanh, mức độ thành công của phương án sản xuất kinh doanh và sự mạo hiểm khi đối diện với rủi ro trước một tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng. Vì vậy, từ cấu trúc vốn tối ưu, kết quả phân tích sẽ giúp doanh nghiệp xác định được cấu trúc vốn mục tiêu cho riêng mình cho tỷ lệ vốn chủ sở hữu và vốn vay. Trên thực tế, vẫn có doanh nghiệp nâng mức vốn vay lên trên 50% mà vẫn đạt được hiệu quả sử dụng vốn như mong đợi. Nhưng từ cấu trúc vốn tối ưu được xác định ứng với những điều kiện riêng của doanh nghiệp, cấu trúc vốn mục tiêu thường được các doanh nghiệp duy trì mức tỷ lệ vốn vay trong độ an toàn mà đa phần doanh nghiệp ứng dụng thấp hơn tỷ lệ vốn sở hữu, có thể là 60% vốn chủ sở hữu và 40% vốn vay4. Điều đáng chú ý khác là không phải trong trường hợp nào mức chi phí sử dụng vốn vay thấp cũng mang lại hiệu quả nếu doanh nghiệp vẫn để vốn tự có nhàn rỗi hay chưa tối đa hóa được hiệu dụng của đồng vốn đó.
Không riêng gì với các nhà tài chính, việc cắt giảm chi phí sử dụng vốn mà nâng cao giá trị cho từng đồng vốn được sử dụng cũng được các nhà kinh tế học lưu ý. Những phân tích của họ về tính kinh tế theo phạm vi trong xác định quy mô và phương án sản xuất giúp chúng ta biết điều này.
Nhìn chung, việc sử dụng nợ trong kinh doanh có thể làm gia tăng rủi ro tài chính cho doanh nghiệp do cộng thêm áp lực rủi ro lên đồng vốn của chủ sở hữu, hay có thể làm mất đi cơ hội khả năng vay nợ sau đó khi có nhu cầu thật sự về vốn, nhưng bù lại, doanh nghiệp có thể giảm nhẹ gánh nặng rủi ro kinh doanh lên tài sản của doanh nghiệp. Không những thế, việc sử dụng vốn vay sẽ tạo đòn bẩy hoạt động cao do chi phí vốn cố định sẽ được sử dụng nhiều hơn; đồng thời sẽ tạo áp lực cho nhà quản lý điều hành hoạt động doanh nghiệp sao cho việc sử dụng vốn thật hiệu quả, ít nhất là để có đủ khả năng...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status