Tiểu luận Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng - pdf 13

Download Tiểu luận Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng miễn phí



MỤC LỤC
 
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
I. Khái quát chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 3
1.1 Chế độ tài sản của vợ chồng trong cổ luật Việt Nam 3
1.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ Pháp thuộc 3
1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật ở miền Nam nước ta trước ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975) 3
1.4. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình nước ta từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay 4
II. Khái quát về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 4
III. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng: 7
3.1 Cơ sở lý luận: 7
3.1.1 Cơ sở về quyền bình đẳng của phụ nữ 7
3.1.2 Cơ sở về quyền sở hữu tài sản riêng của cá nhân 9
3.2 Cơ sở thực tiễn 11
IV. Ý nghĩa của việc ghi nhận chế độ tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng 12
V. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản riêng của vợ, chồng 13
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37869/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hững nhu cầu gia vụ bảo đảm đời sống chung của gia đình.
1.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ Pháp thuộc
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác và cuối cùng đã đầu hàng vô điều kiện. Để thực hiện chính sách “chia để trị”, thực dân pháp đã chia nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ luật dân sự Trung kỳ năm 1936 là chế độ cộng đồng toàn sản với quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình. Còn ở miền Nam, tập dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883 không sự liệu cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng nên được áp dụng theo án lệ, cho đến ngày ra đời luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm.
1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật ở miền Nam nước ta trước ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975)
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi chấm dứt thời kỳ kéo dài gần 80 năm Pháp thuộc. Theo hiệp định Giơnevơ, đất nước ta vẫn tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Miền Bắc được giải phóng bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, sau 1954, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong giai đoạn này, vấn đề pháp luật điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình dưới chế độ Ngụy quyền Sài gòn được thể hiện thông qua ba vănn bản luật đó là: Luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm đã sự liệu chế độ cộng đồng toàn sản giữa vợ chồng; sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 dưới chế độ Nguyễn Khánh quy định về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng; Bộ luật dân sự ngày 20/12/1972 dưới chế độ NguyễnVăn Thiệu đã dự liệu chế độ cộng đồng động sản và tạo sản là chế độ tài sản pháp định áp dụng cho vợ chồng.
1.4. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình nước ta từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Tính tất yếu khách quan đòi hỏi phải có một hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan dần hoàn thiện và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội, có tính khả thi cao từ luật Hôn nhân gia đình năm 1959 đến luật Hôn nhânn – gia đình năm 1986 và 2000. Trong hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo thời gian, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng cũng như thực tế các quan hệ hôn nhân – gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình (trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng) từ chỗ chưa được quy định cụ thể, đến đó, vợ chồng có quyền bình đẳng khi thực hiện quyền sở hữu và định đoạt tài sản chung, tài sản riêng.
II. Khái quát về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử xã hội, mỗi chế độ xã hội đều quy định một chế độ tài sản giữa vợ chồng cho phù hợp với phong tục tập quán và hoàn cảnh kinh tế xã hội.
Trong thời kỳ phong kiến, theo quan điểm Nho giáo, gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng trong xã hội, là nền tảng của xã tắc. Địa vị của người phụ nữ theo triết lý Nho giáo rất thấp kém. Họ không có quyền gì trong gia đình mà bị ràng buộc bởi thuyết tam tòng. Do đó, theo quan điểm nho giáo, hôn nhân là sự chuyển giao uy quyền đối với người phụ nữ từ người cha sang cho người chồng. Tuy nhiên, với sự tiếp nhận các phong tục tập quán dân tộc có lợi cho sự vững mạnh của triều đình mặc dù các phong tục đó không phù hợp với triết lý Nho giáo, Bộ luật nhà Lê đã phản ánh một cách khá trung thực và điều chỉnh một cách hợp lý mối quan hệ giữa vợ và chồng phù hợp với thực tế xã hội việt nam. Vì vậy, địa vị pháp lý của người vợ được cải thiện hơn hẳn so với quan niệm Nho giáo. Bộ luật nhà Lê công nhận vợ chồng đều có quyền sở hữu đối với tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ chồng là tài sản mà mỗi bên vợ , chồng có trước khi kết hôn, do thừa kế do gia đình của mỗi người. Đối với tài sản này, vợ chồng đều có quyền sở hữu riêng rẽ mặc dù những tài sản này được quản lý chung bởi vợ chồng và các tức lợi của nó là tài sản chung. Những tài sản này chỉ tạm thời gộp vào để vợ chồng quản lý chung trong thời gian hôn nhân. Người chồng không có quyền chiếm dụng tài sản mà vợ được thừa kế từ dòng họ nhà mình và ngược lại, người vợ cũng vậy. Do đó, khi ly hôn thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về sở hữu riêng của người đó và họ có quyền mang theo, trừ trường hợp ly hôn do người vợ có lỗi như gian dâm thì điền sản của vợ phải để lại cho chồng (điều 401).
Sự thừa nhận người vợ có quyền sở hữu tài sản riêng là điểm tiến bộ của Quốc triều hình luật mà không tìm thấy trong pháp luật phong kiến Trung Quốc cũng như trong Hoàng Việt luật lệ vì Hoàng Việt luật lệ được sao chép nguyên văn từ luật nhà Thanh.
Dưới thời kỳ Pháp thuộc, với chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng điều chỉnh các quan hệ HN - GĐ, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng.
Thời kỳ đầu, các án lệ ở Nam Kỳ đã áp dụng theo quan niệm người vợ có tài sản riêng và chế độ hôn sản là theo chế độ cộng đồng tài sản; nhưng sau đó các án lệ lại đổi hướng không công nhận quyền có tài sản riêng của người vợ với lập luận rằng: “nếu công nhận chế độ cộng đồng tài sản tức là đã gán cho người vợ những quyền ngang hàng với quyền của ngườ chồng, trong khi đó trong gia đình, người vợ chỉ có địa vị như địa vị của một người con gái”. Tất cả tài sản trong gia đình đều thuộc sở hữu và quản lý của người chồng. Như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng tại Nam Kỳ dưới thời kỳ Pháp thuộc đã rất bất công đối với người vợ, kể cả những tài sản do người vợ tạo ra được khi hành nghề riêng trước thời kỳ hôn nhân vẫn phải coi là thuộc tài sản của người chồng.
Khác với Nam Kỳ,điều 106, 107 dân luật Bắc Kỳ và điều 105 dân luật Trung Kỳ quy định: “nếu hai vợ chồng không có tư ước với nhau thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu tức lợi tài sản của chồng và của vợ hợp làm một mà chung nhau…”.
Mặc dù vợ và chồng có thể có tài sản chung từ trước khi kết hôn , nhưng kể từ khi kết hôn và trong suốt thời kỳ hôn nhân thì các tài sản riêng đó (bao gồm cả động sản và bất động sản) được hợp nhất thành khối tài sản chung vợ chồng. Tuy nhiên, đó chỉ là sự hợp nhất tạm thời trong thời kỳ hôn nhân. Chỉ có những tài sản do hai vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mới là tài sản ch...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status