Về việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án và Trọng tài nước ngoài - pdf 13

Download Về việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án và Trọng tài nước ngoài miễn phí



Sau đây chỉ xin nêu ra một trường hợp bản án, quyết định dân sự nước ngoài sẽ không được công nhận nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của Toà án Việt Nam. Hay nói cách khác, bản án, quyết định của Toà án nước ngoài sẽ được công nhận tại Việt Nam nếu, ngoại trừ 5 trường hợp còn lại, không thuộc them quyền xét xử riêng biệt của Toà án Việt Nam. Điều 411 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định một số trường hợp về quyền tài phán riêng biệt của Toà án Việt Nam liên quan đến bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam, hợp đồng vận chuyển mà người vận chuyển có trụ sở chính hay chi nhánh tại Việt Nam và một số vụ việc khác. Như vậy, đối với bản án, quyết định dân sự của Toà án của nước được áp dụng nguyên tắc có đi có lại, thì bất kể Toà án những nước này dựa trên cơ sở quyền tài phán gì miễn không thuộc những vụ việc thuộc quyền tài phán riêng biệt của Việt Nam nói trên đều có thể được công nhận.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38196/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Về việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án và Trọng tài nước ngoài
Nguyên tắc có đi có lại (khoản 3, Điều 343, Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực từ ngày 01/01/2005) được áp dụng đối với việc công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án và Trọng tài nước ngoài không có điều ước quốc tế với nước ta. Bài viết phân tích thông lệ quốc tế trong áp dụng nguyên tắc này và liên hệ với thực tiễn công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án và Trọng tài nước ngoài ở Việt Nam. 1. Việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án và Trọng tài nước ngoài: những trở ngại Việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án (sau đây gọi tắt là bản án) và Trọng tài nước ngoài trên lãnh thổ của quốc gia khác là vấn đề không mới trong tư pháp quốc tế, nhưng luôn gặp nhiều trở ngại. Bởi vì, nó liên quan đến chủ quyền quốc gia và quyền lợi của các bên đương sự, giữa một bên là “sự thân thiện quốc gia” (comity) và mặt khác là sự thiếu tin tưởng vào hệ thống tư pháp hay luật tố tụng của quốc gia khác, là do sự khác biệt về những chuẩn mực công bằng, đạo đức, trật tự xã hội…giữa các quốc gia[1]. Lý do của xung đột nằm ngay ở đặc thù của bản án. Một mặt, bản án là phán quyết của cơ quan công quyền nên mang tính chất công (public); mặt khác, nó nhằm giảI quyết quyền lợi giữa các bên đương sự, vì vậy mang tính chất tư (private) [2]. Vì bản án là phán quyết của cơ quan công quyền nên chỉ có hiệu lực pháp lý trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Nguyên tắc chủ quyền quốc gia không cho phép một bản án của Toà án nước ngoài có hiệu lực trực tiếp trên quốc gia mình. Ngoài ra, các quốc gia cũng e dè về tính công minh; về cơ sở quyền tài phán, thủ tục tố tụng và cách thức Toà án nước ngoài xét xử vụ việc [3]. Những băn khoăn đó có thể khiến các quốc gia từ chối công nhận và thi hành bản án của Toà án nước ngoài để bảo vệ công dân, pháp nhân mình [4]hay yêu cầu sự có đi có lại [5]. Bản án nhằm giải quyết quyền lợi của các bên đương sự do đó nó đòi hỏi việc công nhận và thi hành tại một quốc gia khác. Hơn nữa, việc công nhận tránh được việc xét xử trùng lắp (cùng một sự việc, giữa cùng các đương sự) giữa các Toà án [6], giảm tốn kém cho việc xét xử và tránh xảy ra việc tranh chấp không có hồi kết thúc. Vì vậy, khi xem xét vấn đề công nhận và thi hành bản án của Toà án nước ngoài phảI nhìn từ nhiều khía cạnh. Về mặt công, phải xem xét đến những quan hệ chính trị, thương mại giữa hai quốc gia. Về mặt tư, các quốc gia phải xem xét dưới góc độ bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự từ kết quả giải quyết của Toà án nước ngoài, đồng thời bảo vệ đương sự tránh những xét xử không công bằng và bảo vệ những chuẩn mực đạo đức, trật tự công cộng của quốc gia mình. Thông thường, các quốc gia giải quyết vấn đề công nhận và thi hành bản án của Toà án nước ngoài theo ba cách:
ký kết hay tham gia các điều ước quốc tế;
áp dụng nguyên tắc có đi có lại để xem xét việc công nhận và thi hành bản án nước ngoài dựa trên các điều kiện được quy định trong nước;
áp dụng trực tiếp các điều kiện công nhận (hay không công nhận) do luật trong nước quy định.
Trong đó, việc ký kết hay tham gia điều ước quốc tế xét cho cùng cũng là một hình thức áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Các bên ký kết hay tham gia điều ước thoả thuận những nội dung hay thủ tục liên quan đến vấn đề công nhận và thi hành giữa các nước thành viên [7]. Việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong khoản 3, Điều 343 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc cách thứ hai. 2. Nguyên tắc có đi có lại 2.1. Thực tiễn quốc tế Thứ nhất, nguồn gốc của nguyên tắc có đi có lại xuất phát từ nguyên tắc thân thiện quốc gia. Nguyên tắc này cho rằng, mặc dù theo chủ quyền quốc gia, luật (hay bản án của nước ngoài) không có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ của quốc gia khác, nhưng xuất phát từ sự tiện lợi cho giao dịch dân sự giữa các nước nên có sự thoả thuận giữa các nước trong việc công nhận hiệu lực pháp lý của pháp luật (bản án) của nước khác trên lãnh thổ một nước [8]. Nguyên tắc thân thiện quốc gia đòi hỏi sự có đi có lại để có sự ngang bằng (equality) [9]. Vì vậy, không bắt buộc nước này phải công nhận bản án của nước kia khi mà nước đó đã không công nhận bản án của nước mình [10]. Nguyên tắc thân thiện quốc gia và nguyên tắc có đi có lại không trái với nguyên tắc chủ quyền quốc gia. Vì vậy, chúng được chấp nhận và áp dụng một cách phổ biến. Tuy nhiên, những nguyên tắc này lại chú trọng quan hệ quốc gia, do đó xem nhẹ khía cạnh tư (quyền lợi của đương sự). Đặc biệt, trong hoàn cảnh quốc tế hoá hiện nay, khi mà sự giao lưu dân sự thương mại phát triển hơn bao giờ hết và đôi khi khó xác định được biên giới chủ quyền quốc gia [11] thì cũng cần đánh giá lại vị trí của những nguyên tắc này. Thứ hai, nguyên tắc có đi có lại mang bản chất chính trị. Chính bản chất chính trị này làm lệch hướng công bằng đối với vấn đề công nhận [12]. Bởi vì nó đối xử phân biệt giữa các bản án của các nước khác nhau [13]và nhiều khi không quan tâm đến lợi ích của đương sự. Một hạn chế nữa của nguyên tắc có đi có lại là sự trì hoãn và gây tốn kém cho đương sự và nhà nước (vì nếu một bản án không được công nhận, đương sựbuộc phải bắt đầu vụ việc lại ở Toà án của nước được yêu cầu công nhận) [14]. Thứ ba, các quốc gia hy vọng việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại là công cụ để buộc các quốc gia khác sẽ công nhận bản án của Toà án quốc gia mình và vì vậy có thể bảo vệ quyền lợi của công dân và pháp nhân của mình ở nước ngoài [15]. Tuy nhiên, không ai bảo đảm rằng mục tiêu này sẽ được thực hiện. Kể cả khi đạt được một thoả thuận hay ngầm định về áp dụng nguyên tắc có đi có lại thì các quốc gia cũng không hoàn toàn mặc nhiên công nhận và thi hành bản án của Toà án nước ngoài mà vẫn xem xét đến các điều kiện công nhận (hay không công nhận) theo luật quốc gia. Sự khác biệt về các điều kiện công nhận cũng như những chuẩn mực công bằng trong luật quốc gia là trở ngại đối với thực hiện thoả thuận có đi có lại trong việc công nhận và thi hành bản án nước ngoài [16]. Điều này làm cho nguyên tắc có đi có lại mang tính hình thức. 2.2. Pháp luật Việt Nam về nguyên tắc có đi có lại Việc đưa nguyên tắc này vào Bộ luật Tố tụng dân sự, theo chúng tui là do xuất phát từ sự khiếm khuyết của Pháp lệnh công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án và Trọng tài nước ngoài năm 1993 (Pháp lệnh 1993). Theo Pháp lệnh 1993 [17] và Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 24/07/1993 của Bộ TƯ pháp, Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh 1993 [18] thì việc công nhận và thi hành bản án của Toà án nước ngoài chỉ áp dụng đối với những nước có ký Hiệp định tương trợ ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status