Tiểu luận Phương thức bảo vệ quyền sở hữu – Một só vẫn đề lí luận và thực tiễn - pdf 13

Download Tiểu luận cách bảo vệ quyền sở hữu – Một só vẫn đề lí luận và thực tiễn miễn phí



Xét về mặt khoa học luật, người ta thường gọi đây là cách kiện buộc chấm dứt hành vi. Trở lại ví dụ đã dẫn ở phần trên:
Trong thực tế, các tranh chấp có đối tượng là hành vi trái pháp luật như trên chủ yếu liên quan đến bất động sản. Một ví dụ nữa cũng rất điển hình là hành vi xây tường bao hay tường rào chắn lối đi của nhà hàng xóm. Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp dạng này tại Toà án hay Uỷ ban nhân dân các cấp, có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Hành vi là đối tượng của việc kiện phải là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật ở đây được hiểu không chỉ là trái với các quy định của Bộ luật dân sự, mà còn trái với quy định của các văn bản pháp luật khác (như đất đai, xây dựng ). Đặc điểm chung của các hành vi này là cản trở chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp thực hiện những quyền năng của mình trong khuôn khổ pháp luật.
- Trên thực tế, loại việc này thường liên quan đến bất động sản liền kề như nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất, lối đi chung
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38093/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

thì loài người đã chiếm hữu những vật sẵn có trong thiên nhiên. Khi có pháp luật rồi thì mới phát sinh khái niệm quyền chiếm hữu. Muốn chứng minh mình là chủ sở hữu thì tuỳ từng trường hợp: đối với bất động sản phải dựa vào việc đăng ký tài sản, còn đối với động sản thì bản thân sự chiếm hữu cũng là một cách thức để chứng minh. Không nên để ‘‘tình trạng chiếm hữu’’ như là khi xã hội chưa có luật pháp.
1.2. Quyền sử dụng:
Điều 192 BLDS quy định:“Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Nói một cách dễ hiểu thì quyền sử dụng là quyền khai thác những lợi ích mang lại từ tài sản.
1.3. Quyền định đoạt:
Điều 195 BLDS quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay từ bỏ quyền sở hữu đó”. Quyền định đoạt có thể thực hiện bằng hai cách: quyết định số phận về mặt thực tế hay quyết định số phận về mặt pháp lý của tài sản.
2. Bảo vệ quyền sở hữu:
Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân, nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ quyền sở hữu. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.
Theo lý luận truyền thống của luật dân sự thì bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Còn cách bảo vệ quyền sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở hữu sử dụng để bảo vệ chủ sở hữu khỏi những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Quyền sở hữu được bảo vệ bằng các biện pháp hình sự,  hành chính hay dân sự. BLDS năm 1995 đã dành hẳn Chương XV (Phần thứ hai), bao gồm 7 điều từ Điều 255 đến Điều 261 để quy định về bảo vệ quyền sở hữu. Ngoài ra, quy định về bảo vệ quyền sở hữu còn nằm rải rác ở một số điều khác, theo đó, chủ sở hữu có quyền bảo vệ quyền sở hữu thông qua các cách sau:
- Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu;
- Yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại;
- Yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
B. Các cách bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.
1. Chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
Như chúng ta đã biết, đặc trưng lớn nhất của quyền dân sự là nguyên tắc tự định đoạt. Cũng chính vì lý do này mà luật dân sự được xếp vào luật tư ở những nước có sự phân biệt hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư. Theo BLDS thì chủ sở hữu có quyền tự thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của chính mình. Ví dụ: chủ sở hữu nhà ở xây tường bao xung quanh nhà của mình để bảo vệ nhà của mình khỏi bị xâm phạm từ bên ngoài, chủ vườn cây ăn quả rào vườn và thuê người bảo vệ, trông nom vườn cây của mình…
Quyền của chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản của mình không phải là tuyệt đối, mà có giới hạn của nó. Giới hạn đó chính là “không được xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Các hành vi như: giăng dây điện quanh ao cá, vườn cây để chống trộm, làm hố chông quanh gốc cây ăn quả … dẫn đến làm người khác bị chết (kể cả kẻ trộm), đều bị coi là hành vi trái pháp luật,  phải bồi thường thiệt hại và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
Các hành vi tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp trong thực tế rất đa dạng. Hiệu quả của các biện pháp này đến đâu phụ thuộc vào chính khả năng của bản thân chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vấn đề đặt ra là khi chủ sở hữu không có năng lực hành vi dân sự để có thể tự mình bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm  hữu hợp pháp đối với tài sản, thì pháp luật dự liệu như thế nào? Cũng giống như Bộ luật dân sự các nước, BLDS đã có một cơ chế để xử lý vấn đề này, đó chính là chế định giám hộ. Theo Điều 65 BLDS, người giám hộ có nghĩa vụ:
“1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự;
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”.
Tất nhiên, bù lại, người giám hộ sẽ được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý, bảo vệ tài sản của người được giám. Nếu người giám hộ có hành vi vi phạm pháp luật (như lợi dụng việc giám hộ để chiếm đoạt tài sản của người được giám hộ), thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trong trường hợp này, việc giám hộ bị chấm dứt để thay thế bằng một quan hệ giám hộ mới, với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Một biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu rất có hiệu quả của chủ sở hữu là biện pháp đăng ký quyền sở hữu. Cơ sở pháp lý của quyền này là Điều 167 của BLDS. Tuy nhiên, để xác định những loại tài sản nào phải đăng ký thì không chỉ dựa vào Bộ luật dân sự mà còn dựa vào các văn bản pháp luật chuyên ngành (Bộ luật Hàng hải, Luật Đất đai, Luật Hàng không dân dụng…). Thông thường, tài sản đó là nhà ở, quyền sử dụng đất, ô tô, xe máy, tàu thuỷ, thuyền, máy bay… Việc đăng ký tài sản rất có ý nghĩa, vì trong các hợp đồng dân sự đòi hỏi phải đăng ký, nó là thời điểm hoàn tất việc chuyển giao quyền sở hữu, đồng thời là cũng là thời điểm để chủ sở hữu có quyền “đối kháng” với người thứ ba khi tài sản có tranh chấp. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng việc đăng ký tài sản ở Việt Nam hiện nay được thực hiện chưa nghiêm túc. Nguyên nhân là do thủ tục hành chính còn rườm rà, lệ phí cao so với mức sống trung bình của người dân, song nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa tốt. Đây là một thực tế gây rất nhiều khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi có tranh chấp xảy ra.
Trên thực tế, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình là biện pháp diễn ra phổ biến nhất và cũng có hiệu quả nhất. Người Việt Nam có truyền thống...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status