Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân - pdf 13

Link tải luận văn miễn phí cho ae
Lời mở đầu
I. Cơ sở lý luận về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .
2. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Phương diện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .
4. Hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
5. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu.
II. Thực tiễn về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .
1. Thực tế chia tài sản chung của vợ chồng thời kỳ hôn nhân .
2. Một số vướng mắc về quy định việc phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân và giải pháp hoàn thiện những quy định đó .
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

I. Cơ sở lý luận về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã không đặt ra vấn đề chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, mà tất cả tài sản của vợ chồng đều thuộc sở hữu chung của hai người, không phân biệt tài sản chung và tài sản riêng. Bởi vì thời kỳ này, lợi ích cá nhân phải luôn gắn liền với lợi ích tập thể, không tồn tại nhiều hình thức sở hữu và đa dạng về thành phần kinh tế như hiện nay. Tuy nhiên, khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát huy các quy định của Hiến pháp năm 1980 về quyền sở hữu riêng của công dân đã công nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng cũng như quyền được yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi có lý do chính đáng và được Tòa án chấp thuận.
1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 18) đã dự liệu về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (nếu vợ chồng không thỏa thuận được) thì chia như khi vợ chồng ly hôn (tức là áp dụng nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng là trước tiên, sau đó mới áp dụng nguyên tắc khác theo Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986), thì luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã không dự liệu về nguyên tắc chia (đôi) tài sản chung của vợ chồng khi có yêu cầu. Có lẽ đây là khiếm khuyết của luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Vì vậy cần thiết phải quy định nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng là trước tiên, sau đó mới xem xét tới các nguyên tắc khác để chia tài sản chung công bằng, hợp lý. Việc bổ khuyết này rất cần thiết tạo cơ sở pháp lí thống nhất trong thực tiễn áp dụng.
Theo em, xuất phát từ đặc điểm của tài sản thuộc sở hữu chung hợp của vợ chồng, trong đó tỉ lệ tài sản của mỗi bên vợ, chồng trong khối tài sản chung là ngang bằng nhau. Luật hôn nhân và gia đình không quy định nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cho nên sẽ áp dụng “Nguyên tắc chung của việc chia tài sản khi ly hôn được quy định tại Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000” .Cụ thể như sau:
- Chia theo sự thỏa thuận của vợ chồng. Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết;
- Chia đôi tài sản chung nhưng xem xét đến tình trạng tài sản, hoàn cảnh và công sức đóng góp của mỗi bên;
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp;
- Tài sản được chia bằng hiện vật hay theo giá trị;
- Thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản do vợ chồng thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết.
2. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định tại Điều 18 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân vẫn còn tồn tại là trường hợp đặc biệt, chỉ khi có lý do chính đáng thì vợ chồng mới được chia tài sản chung và phải do Tòa án xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng quy định này đã gặp rất nhiều khó khăn khi xác định thế nào là có lý do chính đáng và quy định phải được Tòa án chấp nhận là sự can thiệp khá sâu vào tính tự nguyện, thỏa thuận. Kế thừa và sửa đổi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể các trường hợp để Tòa án có thể dễ dàng giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể tại khoản 1 Điều 29 quy định:
“Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hay có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết”.
Theo quy định trên thì chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại được tiến hành trong các trường hợp sau:
Đầu tư kinh doanh riêng: Khái niệm đầu tư kinh doanh riêng khá rộng. Đó có thể là việc thành lập một doanh nghiệp tư nhân, việc tham gia thành lập một công ty với tư cách là một thành viên sáng lập hay việc tham gia vào một kế hoạch hợp tác kinh doanh. Thực ra, tài sản chung vẫn có thể được đầu tư kinh doanh riêng đồng thời vẫn giữ nguyên quy chế tài sản chung: người đầu tư kinh doanh riêng sẽ có độc quyền khai thác công dụng của tài sản, do áp dụng nguyên tắc theo đó, vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý tài sản chung, đặc biệt là nguyên tắc quản lý riêng đối với tài sản chung dùng cho hoạt động nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc chia tài sản chung để tài sản được đầu tư kinh doanh riêng hưởng quy chế tài sản riêng tỏ ra có ích trong trường hợp người đầu tư kinh doanh muốn định đoạt tài sản hay xác lập các giao dịch quan trọng có liên quan đến tài sản (như cầm cố, thế chấp) theo những thủ tục đơn giản tạo điều kiện thuận lợi trong giao dịch. Mặt khác quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, đảm bảo cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra.Quan trọng hơn cả đó là xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của mỗi cá nhân.
Thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng: Theo Điều 285 – Bộ luật dân sự, nghĩa vụ dân sự là việc mà theo quy định của pháp luật thì một hay nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc hay không được làm một công việc vì lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác (gọi là người có quyền). Nếu vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản riêng hay tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì vợ chồng có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiên nghĩa vụ của mình.
Người có lý do chính đáng: Việc xác định có lý do chính đáng để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là xuất phát từ lợi ích gia đình, lợi ích của vợ chồng hay người thứ ba. Một trong những lý do chính đáng có thể là: vợ chồng không còn thực sự sống chung, dù không chấm dứt quan hệ hôn nhân về mặt pháp lý hay trong trường hợp vợ (chồng) vắng mặt tại nơi cư trú hay bị tuyên bố mất tích và người còn lại cần có một khối tài sản riêng để được chủ động hơn trong các giao dịch của mình. Trái lại, khó có thể coi là có lý do chính đáng, nếu vợ hay chồng muốn chia tài sản chung chỉ vì cảm giác rằng các quy tắc về quản lý tài sản chung quá gò bó, gây cản trở cho việc thực hiện các quyền tự do cá nhân của mình... Nói chung, tính chất chính đáng hay không chính đáng của lý do chia tài sản chung chỉ được đánh giá khi có tranh chấp và sự việc được đưa ra trư


o5v13198POVBzm8
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status