Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ - pdf 13

Download Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ miễn phí



Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ về nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định “tổn thất về tài sản” là một thiệt hại cần được bồi thường; đồng thời cũng quy định trách nhiệm bồi thường đối với những “tổn thất về cơ hội kinh doanh” của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ bị vi phạm. Khái niệm “tổn thất về tài sản” được hiểu là “mức độ giảm sút hay bị mất đối với giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ”. Còn “tổn thất về cơ hội kinh doanh” theo hướng dẫn tại Điều 18 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP được hiểu là những “thiệt hại về giá trị tính thành tiền của khoản thu nhập đáng lẽ người bị thiệt hại có thể có được khi thực hiện việc khai thác trực tiếp hay gián tiếp đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ nhưng trên thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây ra”.
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38359/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hình của trường hợp này là tình trạng rất thực tế ở Việt nam đối với những người bán lẻ ở vùng sâu, vùng xa không có điều kiện để nhận biết hay không có đủ kiến thức và hiểu biết để phân biệt được hàng thật và hàng vi phạm đặc biệt khi mà tính chất hàng giả lại được sản xuất, thực hiện một cách hết sức tinh vi và khó nhận biết. Vì vậy, càng không có cơ sở để những người này biết rằng mình đang vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, thậm chí bản thân họ đôi khi cũng trở thành nạn nhân của hành vi vi phạm được thực hiện bởi người khác. Tuy nhiên, người có hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ về mặt khách quan trong những trường hợp như vậy phải có trách nhiệm chứng minh sự vô lỗi của mình để được miễn trừ trách nhiệm. 2. Về hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ Hiện nay, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam mới quy định về các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mang tính trực tiếp mà chưa quy định hành vi gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu quyền là hành vi vi phạm pháp luật. Chính vì thế, khả năng áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các hành vi gián tiếp làm xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ cũng chưa được đề cập đến. Trong khi đó, thực tế các nước cũng như Việt Nam hiện nay đã và đang tồn tại nhiều hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho chủ sở hữu quyền. Vì vậy, các nhà làm luật Việt Nam cũng cần nghiên cứu nhằm bổ sung thêm quy định một số hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Việc quy định các hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là hành vi vi phạm pháp luật một mặt sẽ giúp cho việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả hơn, từng bước đẩy lùi tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, mặt khác, giúp mọi người ý thức rõ hơn về vấn đề tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ. Qua nghiên cứu và tham khảo quy định pháp luật của một số nước tiên tiến, có thể thấy, pháp luật Việt Nam nên bổ sung những hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây vào quy định những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể: (i) xúi giục người khác xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; (ii) gián tiếp tham gia vào hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; (iii) trợ giúp cho người khác thực hiện hành vi xâm phạm nhãn hiệu; (iv) bán hàng hoá cho người khác khi biết hay có lý do để biết rằng người mua sẽ sử dụng hàng hoá đó vào việc trực tiếp xâm phạm nhãn hiệu. Ngoài ra, như đã trình bày ở Chương II đề tài, tại các nước như Pháp, Mỹ, Nhật, ngoài việc quy định hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả hành vi trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật các nước này còn có sự phân biệt rõ ràng cũng như quy định các biện pháp xử lý tương xứng đối với hành vi trực tiếp và hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể: - Theo pháp Luật Sáng chế Mỹ, những hành vi sau bị coi là hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ: (i) xúi giục vi phạm; (ii) gián tiếp tham gia vào hành vi xâm phạm (hành vi chào bán, bán, nhập khẩu các phương tiện, công cụ, thiết bị được sử dụng chủ yếu để tạo ra, sử dụng chủ yếu trong sáng chế được bảo hộ); (iii) nhập khẩu vào Mỹ, bán, chào bán hay sử dụng tại Mỹ những sản phẩm được làm ra bởi một quy trình được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế của Mỹ; (iv) hành vi sản xuất hay cung cấp những bộ phận của sáng chế được bảo hộ để lắp ráp ở nước ngoài. - Luật Lanham Mỹ cũng quy định “một người có thể phải chịu trách nhiệm liên đới/ thay thế (vicariously) cho hành vi xâm phạm nhãn hiệu của người khác nếu anh ta đã trợ giúp cho việc vi phạm”. Một người cũng phải chịu trách nhiệm “nếu bán hàng hoá cho người khác khi biết hay có lý do để biết rằng người mua sẽ sử dụng hàng hoá đó vào việc trực tiếp vi phạm nhãn hiệu của người khác”. - Bộ Luật Sở hữu trí tuệ Pháp cũng quy định rõ tại Điều 163-4 về những hành vi bị coi là vi phạm gián tiếp, bao gồm “việc giao hay cung cấp cho người không có quyền sử dụng sáng chế những phương tiện liên quan đến yếu tố cơ bản, chủ yếu để thực hiện sáng chế được bảo hộ mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu, khi người đó biết hay trong bối cảnh hiển nhiên phải biết rằng những phương tiện này có đủ khả năng và nhằm vào việc sử dụng sáng chế được bảo hộ.” - Điều 101 Luật Sáng chế Nhật Bản cũng quy định những hành vi bị coi là vi phạm gián tiếp (được gọi là “kansetsu-shingai”) bao gồm: hành vi sản xuất, sử dụng, bán, cho thuê hay nhập khẩu hay chào bán, chào cho thuê, như là hoạt động kinh doanh, một vật cái mà chỉ được sử dụng để sản xuất ra sáng chế hay tạo ra quy trình được bảo hộ. Có thể thấy, các quy định này về hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không những tạo cơ sở pháp lý bảo hộ tốt hơn các quyền sở hữu trí tuệ mà còn góp phần giải quyết về mặt lý luận mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm và vấn đề thiệt hại cũng như ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp liên đới hay nhiều chủ thể cùng vi phạm, trong đó, có những chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm gián tiếp và một số chủ thể khác thực hiện hành vi xâm phạm trực tiếp. 3. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên đưa ra yêu cầu không đúng hay lạm dụng các thủ tục thực thi quyền Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2009 dường như chỉ quy định việc bồi thường thiệt hại (gồm cả phí luật sư) áp dụng cho nguyên đơn là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Như vậy, trong trường hợp bị đơn thắng kiện nhưng bị thiệt hại do hành vi khởi kiện của nguyên đơn thì liệu có được hưởng quyền bồi thường đối với các thiệt hại thực tế này hay không? Về nguyên tắc, bên thắng kiện dù là nguyên đơn hay bị đơn đều có thể được xem xét để bồi thường thiệt hại do bên kia gây ra cho mình, đặc biệt là phí thuê luật sư. Như thế, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam chưa có sự ghi nhận một cách rõ ràng, cụ thể và thống nhất về quyền được bồi thường của bị đơn trong trường hợp thắng kiện đối với các thiệt hại về vật chất và uy tín cũng như phí luật sư thích hợp. Đây có lẽ là một sơ suất của các nhà làm luật khi quá chú tâm vào việc làm sao bảo hộ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền mà đã bỏ qua quyền lợi của bị đơn trong những trường hợp không có hành vi xâm phạm nhưng lại bị khiếu kiện là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.  Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần thiết phải có quy định rõ ràng theo hướng “trong trường hợp một bên đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ không đúng và/hay đã lạm dụng các thủ tục thực thi bảo vệ quyền làm thiệt hại đến quyền lợi của người khác thì phải trả cho bên b
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status