Tiểu luận Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định pháp luật hiện hành, một số vấn đề lí luận và thực tiễn - pdf 13

Download Tiểu luận Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định pháp luật hiện hành, một số vấn đề lí luận và thực tiễn miễn phí



MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU:
NỘI DUNG:
I. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:
1. Khái quát chung về giao kết HĐDS:
1.1. Khái niệm giao kết HĐDS:
1.2. Bản chất của giao kết HĐDS:
1.3. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự:
1.3.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội:
1.3.2. Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng:
2. Trình tự giao kết HĐDS:
2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng:
2.1.1. Khái niệm, hình thức, nội dung đề nghị giao kết HĐDS:
2.1.2. Thời điểm đề nghi giao kết HĐDS có hiệu lực:
2.1.3. Thay đổi, rút lại, hủy bỏ và sửa đổi đề nghị giao kết của HĐDS:
2.1.4. Chấm dứt đề nghi giao kết HĐDS:
2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
2.2.1. Khái niệm, hình thức, nội dung chấp nhận đề nghị giao kết:
2.2.2. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS:
2.2.3. Rút lại thông báo chấp nhận giao kết HĐDS:
2.2.4. Hậu quả pháp lý của sự chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS:
2.3. Địa điểm, thời điểm giao kết HĐDS:
II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN :
III. KIẾN NGHỊ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HĐDS Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI:
KẾT LUẬN:
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38320/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ật có liên quan và thực tế cho thấy việc đề nghị giao kết HĐDS được thực hiện với nhiều hình thức khác nhau và có thể thể hiện dưới bất kì hình thức nào. Bên đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với bên được đề nghị để trao đổi, thỏa thuận hay có thể thông qua điện thoại, bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện, thông qua phương tiện điện tử hay các phương tiện khác mà bên giao kết hợp đồng không có mặt tại cùng một địa điểm để kí kết hợp đồng (bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể…) để biểu lộ ý chí của mình muốn tham gia giao kết với chủ thể nhất định một HĐ DS.
+ Nội dung đề nghị giao kết HĐDS: Bên đề nghị giao kết HĐDS phải đưa ra nội dung đề nghi giao kết với những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng để bên kia có thể hình dung ra được HĐDS sẽ được giao kết với nội dung như thế nào, có thể tham gia giao kết HĐDS đó được hay không ?
BLDS 2005 chưa có quy định cụ thể nội dung của đề nghị giao kết HĐDS và Luật Thương mại năm 2005 cũng không quy định nội dung của “chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa”. Thực tế cho thấy, đề nghị giao kết hợp đồng và một số hành vi như: lời mới làm chào hàng, báo giá, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ… rất khó phân biệt mà hậu quả pháp lý của đề nghị giao kết HĐDS có ý nghĩa rất quan trọng đối với bên đề nghị giao kết nên rất cần xác định nội dung của đề nghị giao kết HĐDS. Theo em, nội dung của đề nghị giao kết HĐDS cần có các yếu tố chính sau:
Thứ nhất, đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết HĐDS. Ví dụ: Bên đề nghị giao kết phải thể hiện rõ nội dung mình muốn bán nhà ở (giao kết hợp đồng mua bán nhà nở) hay muốn cho thuê nhà ở (hợp đồng thuê nhà ở) với chủ thể khác…
Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải có các nội dung chủ yếu của loại HĐ DS mà các bên muốn xác lập: Đề nghị giao kết HĐDS do bên đề nghị chủ động đưa ra nội dung (chưa phải là HĐDS), nhưng hỏi phải thể hiện rõ những nội dung chủ yếu của HĐDS mà bên đề nghị dự kiến sẽ giao kết để các chủ thể khác biết được và tham gia giao kết hợp đồng (đề nghị giao kết hợp đồng chứa các nội dung của hợp đồng tương lai). Yêu cầu này có nghĩa là đề nghị giao kết HĐDS phải có đầy đủ nội dung chủ yếu của loại HĐDS để cho phép bên nhận được đề nghị biết được rằng, để giao kết hợp đồng chỉ cần họ thể hiện sự đồng ý của mình với đề nghị giao kết thì HĐDS được giao kết.
Nội dung chủ yếu của HĐDS là những điều khoản mà không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng; Nếu không thỏa thuận được những điều khoản đó thì HĐDS không thể giao kết được. Tuy nhiên, BLDS 2005 hiện nay không quy định về nội dung “chủ yếu” của HĐDS mà chỉ quy định: Tùy theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây: Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hay không được làm; Số lượng, chất lượng; Giá, cách thanh toán; Thời hạn, địa điểm, cách thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phạt vi phạm hợp đồng; Các nội dung khác (Điều 402). Quy định này chỉ mang tính chất liệt kê các nội dung thường gặp trong hợp đồng chứ không phải quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng (Nội dung chủ yếu là những nội dung mà thiếu nó hợp đồng không thể được coi là giao kết). Ví dụ: Các quy định về thời hạn, địa điểm, cách thực hiện … nếu không có thỏa thuận thì cũng đã có quy định của pháp luật. Như vậy, việc xác định nội dung chủ yếu của HĐDS cũng như nội dung của đề nghị giao kết HĐDS trên thực tế cũng rất khó khăn và phức tạp.
Thứ ba, đề nghị giao kết HĐDS phải hướng tới một hay một vài chủ thể khác đã được xác định cụ thể: Đây là một nội dung quan trọng giúp phân biệt đề nghị giao kết HĐDS với một số hành vi tương tự như: Lời mời làm chào hàng, báo giá, quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ … Trong nội dung đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định của bên đề nghị giao kết với bên đã được xác định về việc giao kết một HĐDS cụ thể và phải được “gửi” cho bên được đề nghị biết về đề nghị giao kết; Bên đề nghị giao kết phải chịu sự ràng buộc về đề nghị này đối với bên đã được xác định cụ thể trong giao kết.
Thứ tư, đề nghị giao kết HĐDS có thể xác định thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết: Nghiên cứu khoản 2 Điều 390 BLDS 2005 có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam có quy định về trường hợp đề nghị giao kết có nêu rõ thời hạn trả lời và như vậy cũng sẽ công nhận có trường hợp đề nghị giao kết không nêu rõ thời hạn trả lời trên thực tế. Tuy nhiên, BLDS 2005 không có quy định bắt buộc phải nêu rõ thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết trong đề nghị giao kết HĐDS, nhưng cũng không quy định cụ thể cách thức xác định thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS trong trường hợp đề nghị giao kết HĐDS không nêu rõ thời hạn trả lời chấp nhận giao kết và giá trị pháp lý của đề nghi giao kết này. Đây là vấn đề pháp sinh tranh chấp vvà rất khó giải quyết trên thực tế.
2.1.2. Thời điểm đề nghi giao kết HĐDS có hiệu lực:
Việc xác định đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực là quan trọng vì đó là thời điểm mà bên nhận đề nghị giao kết có thể chấp nhận lời đề nghị, do vạy ràng buộc bên đưa ra đề nghị về hợp đồng sẽ quyết định giao kết.
Theo pháp luật dân sự thì đề nghị giao kết HĐDS chỉ phát sinh hiẹu lực khi nó được thông báo (gửi) cho bên được đề nghị biết. BLDS 2005 bổ sung Điều 391 quy định về thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực, cụ thể:
“1. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau:
a) Do bên đề nghị ấn định;
b) Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. ....”
Như vậy, pháp luật dân sự Việt Nam quy định thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực theo hướng để cho bên đề nghị giao kết chủ động ấn định thời điểm trong đề nghị giao kết HĐDS, nhưng đồng thời cũng quy định cách xác định thời điểm trong trường hợp bên đề nghị giao kết không ấn định thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực (có hiệu lực từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị). Quy định này bảo đảm phù hợp với quan hệ HĐDS vốn rất đa dạng, phong phú trên thực tế.
2.1.3. Thay đổi, rút lại, hủy bỏ và sửa đổi đề nghị giao kết của HĐDS:
BLDS 2005 quy định các trường hợp thay đổi, rút lại đề nghị giao kết HĐDS như sau:
+ Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao keét hợp đồng trong các trường hợp sau đây: Nếu bên được đề nghị được thông báo về việc thay đổi hay rút lại đề ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status