Tiểu luận Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự - Lý luận và thực tiễn - pdf 13

Download Tiểu luận Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự - Lý luận và thực tiễn miễn phí



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
I. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 1
1. Khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 1
2. Ý nghĩa của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 2
3. Cơ sở của việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. 3
II. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 3
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 3
2. Các công việc chuẩn bị xét xử 5
III. Thực trạng của công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này. 8
1. Thực trạng của công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 8
2 . Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 11
KẾT LUẬN 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38952/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

theo khái niệm như đã tìm hiểu ở trên thì CBXXST gồm những công việc cụ thể do những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật, phù hợp với địa vị tố tụng của họ Nguyễn Thị Thuý Hoà, Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự _ Luận văn thạc sỹ luật học, 2010.
để phục vụ trực tiếp cho thủ tục xét xử sơ thẩm.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tui tiếp cận CBXXST với tính chất là hoạt động của toà án trong thủ tục xét xử sơ thẩm. Các công việc chuẩn bị xét xử chủ yếu của Tòa án bao gồm: phân công thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý vụ án; lập hồ sơ vụ án dân sự ; quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập những người tham gia tố tụng đến tham gia phiên tòa.
2. Ý nghĩa của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng dân sự. Đây là giai đoạn tố tụng dân sự quan trọng, trong đó, Toà án xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, từ đó xác định được đầy đủ nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Khi đã xác định được các đương sự trong vụ án, Toà án có thể yêu cầu họ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình hay bác lại yêu cầu của đương sự khác…Nếu cần bổ sung chứng cứ thì Toà án sẽ thu thập theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để hoàn thiện hồ sơ vụ án. Việc thu thập, xác minh chứng cứ đầy đủ sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác, bảo vệ đúng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm. Nếu xác định thiếu đương sự trong vụ án sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời việc thu thập chứng cứ và giải quyết vụ án sẽ thiếu toàn diện, thiếu chính xác. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, Tòa án sẽ tiến hành nghiên cứu, xem xét hồ sơ vụ án. Từ đó, Tòa án sẽ kiểm tra thật kỹ lưỡng tất cả các vấn đề liên quan tới vụ án để chuẩn bị tốt cho phiên tòa sơ thẩm, đồng thời dự liệu một số khó khăn gặp phải trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án. Không chỉ có vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, các đương sự có thể chuẩn bị cả về mặt tâm lý cũng như kiến thức pháp luật để sẵn sàng cho phiên tòa sơ thẩm được tiến hành sau đó.
Có thể nói, giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn rất quan trọng, tuy không đưa ra những phán quyết như giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm nhưng nó làm tiền đề, cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho việc xét xử và ra các phán quyết của toà án được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.
3. Cơ sở của việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được tiến hành dựa trên ý nghĩa quan trọng của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Đồng thời, các công việc cần thực hiện khi tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự như phân công thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý vụ án; lập hồ sơ vụ án dân sự và quyết định đưa vụ án ra xét xử,... còn được thực hiện dựa trên những nguyên tắc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự. Ví dụ như khi lập hồ sơ vụ án, cần đảm bảo nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự ; Tòa án chỉ có thể giải quyết một cách chính xác và công bằng khi có đầy đủ các chứng cứ và các tình tiết của vụ án dân sự đã được làm sáng tỏ. Ngoài ra, việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm còn dựa trên cơ sở đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa ; đồng thời đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên đương sự.
II. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án vào số thụ lý vụ án đến ngày Toà án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tùy theo tính chất của từng loại vụ án mà thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định khác nhau. Quy định này là sự kế thừa các quy định của pháp lệnh đã được Nhà nước ta ban hành trước đây quy định về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, lao động và kinh tế như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS), thì tuỳ từng loại vụ án mà thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định khác nhau, cụ thể như sau:
*Đối với các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình (được quy định tại Điều 25 và Điều 27 BLTTDS) là 4 tháng, kể từ ngày thụ lý. Vì những vụ án này thường có tính chất phức tạp nên nhà làm luật quy định thời hạn chuẩn bị xét xử tương đối dài.
*Đối với những vụ án kinh doanh, thương mại và lao động (được quy định tại Điều 29 và 31 BLTTDS) là 2 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. BLTTDS 2004 quy định như vậy là vì những vụ án trên phát sinh từ các quan hệ rất nhạy cảm, đòi hỏi phải giải quyết kịp thời.
*Đối với vụ án có tính chất phức tạp hay do trở ngại khách quan thì Chánh án TA có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 2 tháng đối với vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 BLTTDS và 1 tháng đối với vụ án kinh doanh, thương mại và lao động quy định tại Điều 29 và Điều 31 BLTTDS.
Theo Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP thì “Những vụ án có tính chất phức tạp” là những vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hay tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hay cần giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài đang ở nước ngoài hay người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản ở nước ngoài cần có thời gian uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự, ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài…Tuy nhiên, đối với trường hợp cần chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần chờ kết quả giám định kỹ thuật phức tạp hay cần chờ kết quả uỷ thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán căn cứ vào khoản 4 Điều 189 của BLTTDS ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. “Trở ngại khách quan” là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu… làm cho Toà án không thể giải quyết được vụ án trong thời hạn quy định. “Lý do chính đáng” quy định tại khoản 3 Điều 179 của BLTTDS được hiểu là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được như: cần có sự thay đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status