Bài giảng Kế toán quản trị - pdf 13

Download miễn phí Bài giảng Kế toán quản trị



Nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm qua đã đặt ra yêu cầu cấp bách là phải đổi mới cơ chế quản lý và hệ thống quản lý kinh tế, trong đó kế toán vừa là công cụ quan trọng để quản lý vốn, tài sản và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; vừa cung cấp những số liệu tin cậy cho Nhà nước trong việc quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế; kiểm tra, kiểm soát và đánh giá hoạt động kinh doanh của các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy đổi mới và hoàn thiện không ngừng công tác kế toán nói chung, KTQT nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu về nội dung đổi mới kinh tế hiện nay ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết.
Việc tổ chức vận dụng KTQT trong các doanh nghiệp cần tập trung vào những vấn đề quan trọng sau: Tổ chức xây dựng thông tin cho KTQT; Xử lý thông tin từ tài liệu sẵn có của kế toán tài chính; Xây dựng mô hình chung KTQT ở doanh nghiệp; Đề xuất các giải pháp phù hợp để vận dụng KTQT.
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39946/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

thực tế với dự báo để nhà quản trị kịp thời điều chỉnh, đảm bảo tiến độ kế hoạch.
- Với chức năng ra quyết định, thông tin kế toán thường là nhân tố chính trong việc ra quyết định của nhà quản trị. Điều này được thể hiện rất rõ qua bản chất của thông tin kế toán. Nó là nguồn tin mang tính chính xác cao, kịp thời, hữu ích nhất so với thông tin từ những lĩnh vực chuyên ngành khác. Bởi lẽ, nó luôn phản ánh tình hình thực tế theo những tiêu chuẩn, phương pháp quy định mang tính thống nhất cao và đồng thời được thừa nhận khá rộng rãi mà khó có một chuyên ngành nào khác đảm bảo được.
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ BẢN CHẤT CỦA KTQT
Sự cần thiết của KTQT
Trong môi trường kinh doanh hiện nay, nhu cầu về thông tin trong công tác quản lý đã có sự gia tăng rất lớn và đa dạng do áp lực của những thay đổi nhanh chóng về các vấn đề:
- Toàn cầu hoá về kinh tế ngày càng phát triển và lan rộng.
- Sự mở rộng đầu tư giao lưu kinh tế giữa các quốc gia.
- Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các công ty trong nước, giữa các công ty ở những quốc gia khác nhau.
- Sự tiến bộ nhanh chóng về khoa học kỹ thuật thúc đẩy sự tự động hoá ngày càng toàn diện trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
- Sự ra đời ngày càng nhiều các công cụ quản lý, các chuyên ngành khoa học hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý, kế toán.
- Sự phát triển về quy mô, ranh giới hoạt động của các tổ chức.
Chính điều này và kết hợp với sự tiến bộ trình độ giáo dục, trình độ chuyên môn kế toán đã làm cho kế toán phát triển sâu rộng hơn về tính chất và đặc điểm thông tin cần cung cấp. Kế toán không chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin mang tính nguyên tắc mà còn đòi hỏi phải linh hoạt, kịp thời, hữu ích. Đồng thời, thông tin kế toán cũng phải đảm bảo tính đơn giản, nhanh chóng nhằm hỗ trợ đắc lực cho nhà quản trị trong môi trường kinh doanh mới.
Như vậy, có thể nói chính môi trường kinh doanh trong giai đoạn hiện nay là cơ sở khách quan cho sự ra đời và phát triển của kế toán quản trị và những nhận thức chủ quan của nhà quản trị trong xu thế hội nhập, cạnh tranh và phát triển tạo nên kế toán quản trị. Kế toán quản trị tồn tại song hành với kế toán tài chính và trở thành một công cụ kinh tế tài chính giúp các nhà quản trị nâng cao khả năng điều hành, quản lý tổ chức một cách có hiệu quả.
Bản chất của kế toán quản trị
Hiện nay đang tồn tại 2 quan điểm chính về bản chất của KTQT:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng KTQT là việc ghi chép kế toán nhằm thu thập, xử lý, truyền đạt các thông tin chi tiết, cụ thể, phục vụ cho công tác quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy KTQT đồng nghĩa với kế toán chi tiết, nó ghi chép và phản ánh mọi số liệu từ bao quát đến cụ thể, cung cấp những thông tin đầy đủ nhất cho các nhà quản lý mà kế toán tài chính chưa làm được.
- Quan điểm thứ hai cho rằng KTQT là hệ thống đo lường, thu thập, tổng hợp và xử lý các thông tin nhằm phục vụ cho nhà quản lý trong việc lập kế hoạch, điều hành, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo quan điểm này, KTQT cũng là bộ phận cấu thành của hệ thống kế toán nhưng có phạm vi rất rộng, các thông tin mà nó thu thập và xử lý không chỉ là những thông tin của kế toán chi tiết mà còn cả thông tin của xây dựng kế hoạch, lập dự toán chi phí, đánh giá sản phẩm, lựa chọn phương án đầu tư, phân tích kết quả kinh doanh của doanh nghiệp...
Dù có những điểm khác nhau nhưng tựu chung cả 2 quan điểm trên đều thống nhất rằng: KTQT là một bộ phận của hệ thống kế toán nhằm thu thập, xử lý, truyền đạt các thông tin về tình hình tài sản, nguồn vốn, chi phí và kết quả kinh doanh phục vụ cho việc điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
KTQT là một bộ phận cấu thành của hệ thống kế toán và là một công cụ quan trọng không thể thiếu được đối với công tác quản lý của doanh nghiệp; KTQT sử dụng các phương pháp khoa học để thu nhận, phân tích, xử lý và hệ thống hoá các thông tin theo một trình tự dễ hiểu, phù hợp với nhu cầu thông tin của nhà quản trị phục vụ cho việc ra những quyết định quản lý ở tất cả các khâu công việc trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó, có thể rút ra nhận xét về những đặc trưng cơ bản của thông tin KTQT như sau:
* Thông tin do KTQT cung cấp đặt trọng tâm cho tương lai, nó không chỉ cung cấp thông tin về các nghiệp vụ kinh tế đã xảy ra trong quá khứ, mà quan trọng hơn nó tạo cơ sở và sự tin cậy cho những mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra trong tương lai.
* Thông tin của KTQT cung cấp, ngoài biểu hiện bằng thước đo giá trị còn sử dụng thước đo thời gian và hiện vật, thông qua đó cung cấp cho nhà quản lý doanh nghiệp một cái nhìn đầy đủ nhất, bao quát nhất về hiện trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giúp nhà quản trị doanh nghiệp đề ra những quyết định đúng đắn nhất.
III. PHÂN BIỆT GIỮA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1. Những điểm giống nhau của kế toán quản trị và kế toán tài chính
Mặc dù đặc điểm thông tin của kế toán quản trị và kế toán tài chính khác nhau nhưng giữa hai chuyên ngành này có những điểm giống nhau cơ bản sau:
- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều cùng một đối tượng nghiên cứu là các sự kiện kinh tế tài chính diễn ra trong quá trình, kết quả hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức.
- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều thể hiện thông tin kinh tế tài chính trong mối quan hệ với trách nhiệm của nhà quản trị ở các phạm vi.
- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều sử dụng cùng thông tin kế toán ban đầu nhưng thiết lập nên những mô hình, kết cấu thông tin đáp ứng cho những nhu cầu quản lý khác nhau.
2. Những điểm khác nhau giữa kế toán quản trị với kế toán tài chính.
Xuất phát từ nguồn gốc hình thành và nhu cầu sử dụng khác nhau nên kế toán quản trị với kế toán tài chính có những điểm khác nhau cơ bản sau:
Kế toán quản trị nhấn mạnh đến việc cung cấp thông tin cho những nhà quản trị bên trong doanh nghiệp, tổ chức nhưng kế toán tài chính đặt trọng tâm cung cấp thông tin cho những cá nhân, tổ chức từ bên ngoài doanh nghiệp, tổ chức có quyền lợi kinh tế liên quan.
Kế toán quản trị đặt trọng tâm thông tin cho tương lai nhiều hơn nhưng kế toán tài chính đặt trọng tâm thông tin quá khứ. Thật vậy, phần lớn công việc của kế toán tài chính là hướng đến cung cấp thông tin về những gì đã xảy ra trong quá trình, kết quả hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức để giám sát những hành vi, kết quả của tổ chức nhưng ngược lại phần lớn công việc, nhiệm vụ của nhà quản trị phải làm thuộc về kế hoạch, định hướng, do vậy nhu cầu thông tin của kế toán quản trị cũng gắn liền với những yêu cầu này. Ví dụ khi lập kế hoạch nhà quản trị không thể giả định tương lai chỉ là một sự phản ánh đơn giản những gì xảy ra trong quá khứ mà đòi hỏi phải tiên liệu, ước tính nhiều vấn đề liên quan nên cần một lượng thông tin dự báo khoa học.
Kế toán qu
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status