Trọng tài quốc tế là gì - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Trọng tài quốc tế là gì



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
I. Lịch sử hình thành và phát triển của trọng tài quốc tế. 1
II. Khái niệm trọng tài quốc tế. 3
1. Định nghĩa. 3
2. Đặc trưng. 3
a. Tính “quốc tế” của trọng tài quốc tế: 3
b. Thỏa thuận trọng tài: 5
c. Lựa chọn trọng tài viên: 6
d. Quyết định của hội đồng trọng tài: 6
e. Thi hành quyết định trọng tài: 7
3. Phân loại. 7
III. Sự khác biệt giữa trọng tài quốc tế với tòa án và trọng tài nội địa. 8
1. Sự khác biệt giữa trọng tài quốc tế với tòa án. 8
a. Tính linh hoạt. 8
b. Tính bí mật. 9
c. Phạm vi thi hành. 9
d. Tính chuyên môn. 9
2. Sự khác biệt giữa trọng tài quốc tế với trọng tài nội địa. 10
Kết luận 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11
MỞ ĐẦU
Hiện nay, trọng tài quốc tế đã trở thành một cách phổ biến trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế, đặc biệt là các tranh chấp thương mại quốc tế. Đây là một cách giải quyết tranh chấp tư, được lựa chọn bởi các bên tranh chấp như là một cách hiệu quả làm chấm dứt tranh chấp giữa họ mà không cầu viện đến tòa án. Bài làm này đi làm rõ vấn đề “trọng tài quốc tế là gì?”.
NỘI DUNG
I. Lịch sử hình thành và phát triển của trọng tài quốc tế.
Trọng tài là một trong những cách cổ xưa nhất để giải quyết bất hòa giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã biết sử dụng cách này để giải quyết tranh chấp. Quy định sơ khai về trọng tài trong luật mua bán hàng hóa cho phép các lái buôn được tự phân xử bất hòa của mình không cần có sự can thiệp của Nhà nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng phạm vi tranh chấp, không chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà còn ở những nước La Mã có trao đổi hàng hóa, có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu.
Trong hệ thống luật của Anh, văn bản pháp luật đầu tiên về trọng tài phải kể đến Luật Trọng tài 1697, nhưng vào thời điểm luật được thông qua, đây đã là một cách rất phổ biến (phán quyết đầu tiên của trọng tài ở Anh được đưa ra vào năm 1610). Tuy nhiên các quy định sơ khai về trọng tài trong hệ thống luật common law thể hiện một hạn chế cơ bản là bất cứ bên tham gia tranh chấp nào cũng có thể khước từ việc thực hiện phán quyết của trọng tài nếu thấy phán quyết đó bất lợi cho mình. Hạn chế này đã được khắc phục trong Luật năm 1697. Trong Hiệp ước Jay năm 1794, Anh và Mỹ đã thống nhất đưa các vấn đề còn đang tranh chấp liên quan đến các khoản nợ và biên giới ra giải quyết ở trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp này kéo dài 7 năm, và được coi là kết thúc thành công. Từ đầu thế kỷ XX, các nước (trong đó có Pháp và Mỹ) bắt đầu thông qua các đạo luật quy định và khuyến khích việc phân xử ở cấp trọng tài thay cho kiện tụng ở tòa án vốn được đánh giá là kém hiệu quả hơn.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, cách giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng phát triển, dẫn tới việc hình thành những tổ chức trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các hợp đồng thương mại quốc tế. Tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng được thừa nhận rộng rãi, đặc biệt là trong các thập kỷ gần đây. Các quốc gia sửa đổi luật pháp về trọng tài cho phù hợp với tình hình thực tế; các điều ước quốc tế về trọng tài đang có thêm những thành viên mới; trọng tài trở thành một môn học trong chương trình đào tạo ngành luật; các doanh nghiệp ngày càng tin tưởng vào một cách giải quyết tranh chấp linh hoạt, công bằng, với phán quyết được công nhận rộng rãi trên phạm vi thế giới. hậm chí, trọng tài hiện nay còn giải quyết tranh chấp “trực tuyến” (thường được biết đến với thuật ngữ ODR – online dispute resolution nghĩa là giải quyết tranh chấp trực tuyến). Trọng tài trực tuyến tiến hành khi có khiếu nại trực tuyến, thủ tục tố tụng diễn ra trên internet, trọng tài phân xử và ra phán quyết dựa vào hồ sơ do các bên xuất trình.
Ở tất cả các nước trên thế giới, các tranh chấp dân sự dù có hay không có yếu tố nước ngoài đều được giải quyết không chỉ bằng toà án mà bằng cả trọng tài. Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn xét xử quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế. Cuối thế kỷ 19, người ta đã cố gắng hợp thức hoá tính cách pháp lý cho hình thức trọng tài qua hai Hội nghị Quốc tế. Đó là hội nghị Hoà bình tổ chức tại La – Hay Hà Lan vào năm 1899 và 1907. Hai hội nghị này đã đi đến việc soạn thảo quy chế và thủ tục và nỗ lực hướng dẫn các quốc gia áp dụng triệt để các hiệp ước trọng tài. Cũng như các thuật ngữ khoa học pháp lý khác, khái niệm “Trọng tài” được đề cập nhiều trong luật quốc tế. Định nghĩa sớm nhất về trọng tài được nêu trong Công ước La-Hay năm 1988, theo đó: “Trọng tài là nhằm để giải quyết những bất đồng giữa các bên thông qua một người thứ ba do chính các bên lựa chọn trên cơ sở tôn trọng luật pháp”. Hiệp định La-Hay 1907 qui định: “Trọng tài quốc tế có đối tượng giải quyết là những tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của những trọng tài viên do các quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở của sự tôn trọng luật pháp”.
Có thể thấy, theo thời gian, cơ chế trọng tài được quy chế hóa nhiều hơn, tuy bản chất không thay đổi nhưng phải tuân thủ pháp luật một cách tuyệt đối hơn.
II. Khái niệm trọng tài quốc tế.
1. Định nghĩa.
Theo khoa học luật, Trọng tài quốc tế được hiểu là cách giải quyết tranh chấp trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, chủ yếu trong quan hệ ngoại thương, thương mại và đầu tư trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên đương sự và được tiến hành theo trình tự thủ tục nhất định thông qua cơ quan xét xử là trọng tài do các bên thỏa thuận chọn ra.
2. Đặc trưng.
Trọng tài quốc tế là một hình thức giải quyết tranh chấp lai. Nó bắt đầu bằng một thỏa thuận tư giữa các bên. Nó tiếp tục bắt đầu bằng các thủ tục tư, trong đó ý chí các bên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, nó chấm dứt với một phán quyết có hiệu lực pháp lý bắt buộc và, dựa trên những điều kiện thích hợp, tòa án của hầu hết các quốc gia xét công nhận và cho thi hành. Dưới đây là các đặc trưng cơ bản của trọng tài quốc tế:
a. Tính “quốc tế” của trọng tài quốc tế:
Thuật ngữ “quốc tế” được sử dụng để phân biệt sự khác nhau giữa các vụ trọng tài thuần túy trong nước với các vụ trọng tài, ở một phương diện nào đó, vượt qua biên giới quốc gia và được gọi là quốc tế.
Có hai tiêu chí chủ yếu được sử dụng hay riêng rẽ, hay kết hợp để định nghĩa thuật ngữ “quốc tế”:
- Tiêu chí thứ nhất là bản chất của tranh chấp.
Quy tắc tố tụng hiện hành của ICC xác định chức năng của Trọng tài quốc tế ICC là “tiến hành giải quyết các tranh chấp bằng trọng tài các tranh chấp kinh doanh có tính chất quốc tế phù hợp với Quy tắc này” Không có định nghĩa cụ thể về “tranh chấp kinh doanh có tính chất quốc tế” trong Quy tắc này nhưng cuốn sách phát hành giải thích bởi ICC đã xác định: “…bản chất quốc tế của trọng tài không có nghĩa là các bên phải khác quốc tịch với nhau. Bởi vì đối tượng của nó, hợp đồng tuy nhiên có thể mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia, ví dụ khi một hợp đồng được giao kết giữa hai công dân của cùng một quốc gia nhưng để thực hiện hợp đồng đó ở một quốc gia khác, hay khi hợp đồng được giao kết giữa một nhà nước với công ty con của một công ty nước ngoài kinh doanh tại quốc gia đó”.
Thuật ngữ “quốc tế” cũng được tìm thấy trong luật của Pháp về trọng tài quốc tế. Điều 1492 Nghị định ngày 12 tháng 5 năm 1981 về trọng tài quốc tế quy định đơn giản là “một vụ trọng tài là quốc tế khi nó bao hàm các lợi ích của thương mại quốc tế”. Trước đó, Tòa án tối cao Pháp đã đưa ra một quyết định mà sau này được công nhận bằng quy định trên: “người ta công nhận rộng rãi rằng định nghĩa này bao gồm việc luân chuyển hàng hóa hay tiền từ một nước sang một nước khác, với sự quan tâm tới các yếu tố khác như quốc tịch các bên, địa điểm giao kết hợp đồng,…”
- Tiêu chí thứ hai nhấn mạnh vào các bên, hay là quốc tịch hay nơi thường trú.
Tiêu chí này xem xét quốc tịch, nơi thường trú hay trụ sở thương mại của các bên trong thỏa thuận trọng tài. Đây là cách tiếp cận được chấp nhận trong Công ước châu Âu 1961. Công ước này quy định: “các thỏa thuận trọng tài được giao kết với mục đích giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế giữa các thể nhân hay pháp nhân, khi xác lập thỏa thuận có nơi thường trú hay trụ sở ở các quốc gia khác nhau”.
Thụy Sỹ cũng là một ví dụ về một nước mà quốc tịch các bên xác định trọng tài có phải là quốc tế hay không. Từ ngày 01 tháng 01 năm 1989, các vụ trọng tài quốc tế được tiến hành ở Thụy Sỹ được điều chỉnh bằng luật về trọng tài quốc tế Thụy Sỹ. Theo luật này, trọng tài là quốc tế khi vào thời điểm thỏa thuận trọng tài được xác lập, ít nhất một bên không thường trú hay sinh sống thường xuyên tại Thụy Sỹ.
Ngoài ra, tiêu chí “quốc tịch” cũng được sử dụng ở Anh và Mỹ.
- Tiêu chí kết hợp:
Việc không có một định nghĩa được thừa nhận trên bình diện quốc tế về tính “quốc tế” gây ra nhiều vấn đề. Mỗi quốc gia sẽ có các tiêu chí riêng để xác định một phán quyết trọng tài là quốc tế hay trong nước và do đó không có sự thống nhất. Luật Mẫu được xây dựng chuyên để áp dụng đối với trọng tài thương mại quốc tế. Văn bản này có ý nghĩa lớn lao khi đưa ra định nghĩa về thuật ngữ “quốc tế”. Theo Luật Mẫu thì Trọng tài là quốc tế nếu:
(a) Các bên tham gia thoả thuận trọng tài, tại thời điểm ký kết thoả thuận trọng tài đó, có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau; hoặc
(b) Một trong những địa điểm mà các bên có trụ sở kinh doanh sau đây được đặt ở ngoài quốc gia:
(i) Nơi tiến hành trọng tài nếu được xác định trong hay theo thoả thuận trọng tài;
(ii) Nơi mà phần chủ yếu của các nghĩa vụ trong quan hệ thương mại được thực hiện hay nơi mà nội dung tranh chấp có quan hệ mật thiết nhất;
(c) Các bên đã thoả thuận rõ rằng vấn đề chủ yếu của thoả thuận trọng tài liên quan đến nhiều nước.
Có thể thấy, tiêu chí này đã kết hợp hai tiêu chí đã trình ở trên. Đây là một quy định có ý nghĩa thống nhất các tiêu chí và định hướng cho các quốc gia khi quy định về tính “quốc tế” của trọng tài. Trên thực tế, một vụ trọng tài cụ thể nào đó có phải là “quốc tế” hay không phụ thuộc nhiều vào quy định của luật quốc gia có liên quan.

b. Thỏa thuận trọng tài:
Một thỏa thuận giữa các bên đưa bất kỳ tranh chấp hay sự mâu thuẫn nào giữa họ ra trọng tài là nền tảng của của trọng tài quốc tế hiện đại. Một trọng tài có hiệu lực trước tiên phải có một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Điều này được thừa nhận bởi cả luật quốc gia và các điều ước quốc tế. Ví dụ, theo Công ước New York và Luật Mẫu, việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài có thể bị từ chối nếu các bên của thỏa thuận trọng tài không có năng lực ký kết, hay nếu thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu theo quy định của pháp luật điều chỉnh nó.
Thỏa thuận trọng tài không chỉ là bằng chứng đồng thuận của các bên đưa tranh chấp ra trọng tài và xác lập nghĩa vụ đưa tranh chấp ra trọng tài mà còn là nguồn quyền hạn cơ bản của hội đồng trọng tài. Điều này có nghĩa là, một hội đồng trọng tài chỉ có thể thực hiện những quyền hạn do các bên có quyền trao và đã trao cho nó cùng với các quyền hạn bổ sung hay khác được trao bởi luật điều chỉnh trọng tài. Như vậy, thỏa thuận trọng tài quyết định thẩm quyền của hội đồng trọng tài. Thỏa thuận giữa các bên là nguồn duy nhất của thẩm quyền này không giống như trong thủ tục pháp lý thông thường nhờ đó các tranh chấp được giải quyết thông qua tòa án, thẩm quyền của tòa án liên quan có thể hình thành từ một số nguồn, trong đó thỏa thuận giữa các bên đương sự chỉ là một nguồn.


UlqEE6XaLW9Zzbi
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status