Một số nội dung cơ bản của hợp đồng dân sự - pdf 13

Download miễn phí Khóa luận Một số nội dung cơ bản của hợp đồng dân sự



 
 
 
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I : Khái quát chung về hợp đồng dân sự 4
1.1. Lược sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật dân sự về hợp đồng
ở Việt Nam. 4
1.2. Khái niệm và bản chất pháp lý của hợp đồng dân sự. 19
1.3. Một số vấn đề khác biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế. 21
Chương II: Một số nội dung cơ bản của hợp đồng dân sự 32
2.1. Giao kết hợp đồng dân sự 32
2.2. Thực hiện hợp đồng dân sự 47
2.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐDS 58
2.4. Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó 67
Chương III: Một số kiến nghị và kết luận 75
3.1. Một số nhận xét và kiến nghị về các qui định của hợp đồng dân sự trong luật dân sự 75
3.2. Kết luận 81
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39858/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

luật giá trị chi phối đã quyết định tư cách bình đẳng của chủ thể. Nó không phụ thuộc vào bất cứ một yếu tố bên ngoài nào về địa vị xã hội, giới tính đẳng cấp, trình độ... mà chính nội tại mối quan hệ trao đổi đòi hỏi sự bình đẳng giữa các chủ thể trong hợp đồng và bình đẳng trước pháp luật của cá nhân, của các thành phần kinh tế khác nhau (điều 22 Hiến pháp 1992), đã tạo ra địa vị pháp lý bình đẳng trong xã hội của mỗi chủ thể. Đó là sự bảo đảm pháp lý cho mỗi cá nhân trong giao kết hợp đồng. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng trong giao kết hợp đồng thể hiện: Khi thỏa thuận các bên được bình đẳng đưa ra các điều kiện, những nội dung phù hợp lợi ích của mình để đạt được mục đích đặt ra. Sự hưởng quyền và thực hiện ngiã vụ tương ứng trong phạm vi mà các bên thỏa thuận. Bình đẳng trong giao kết hợp đồng có ý nghĩa bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mỗi bên, bảo đảm sự công bằng trong giao lưu dân sự.
Nguyên tắc thiện chí, hợp tác trong giao kết hợp đồng không ngoài mục đích đảm bảo được bản chất pháp lý của hợp đồng là sự “thỏa thuận” giữa các bên. có nghiã là chỉ có sự thiện chí, hợp tác của các bên mới nhanh chóng đạt được “thỏa thuận”. Sự giao lưu ý chí đi đến thống nhất đòi hỏi thái độ thiện chí, hợp tác từ cả hai phía. Sự thiếu thiện chí, hợp tác của một phía có thể làm cho hợp đồng không được giao kết, hay việc giao kết vi phạm các yếu tố tự nguyện, bình đẳng trong hợp đồng. Nguyên tắc này cũng không ngoài mục đích thiết lập quan hệ hợp đồng để thỏa mãn những nhu cầu vật chất tinh thần cuả mỗi cá nhân. Như vậy sự tồn tại của yếu tố lợi ích mà các bên nhằm vào đã ràng buộc các bên phải thiện chí, hợp tác trong quan hệ. Đồng thời cũng buộc các bên phải biết tôn trọng ý chí của nhau trong quá trình thương lượng, biết thừa nhận lợi ích của nhau một cách công bằng hợp lý. Nguyên tắc thiện chí hợp tác có ý nghĩa trong việc nhanh chóng thiết lập quan hệ hợp đồng với nội dung công bằng, hợp lý hơn và xét đến cùng nó cũng là hậu quả tất yếu trong đáp ứng thỏa mãn nhu cầu của con người.
Một nguyên tắc cuối cùng đòi hỏi trong giao kết hợp đồng các bên phải trung thực và ngay thẳng.Việc thực hiện nguyên tắc này nhằm mục đích bảo đảm hiệu lực của hợp đồng đã giao kết. Hậu quả của sự không trung thực, không ngay thẳng là sự gian dối, lừa lọc khi giao kết hợp đồng làm thiệt hại quyền lợi của một bên. Trong quan hệ hợp đồng mỗi bên đều nhằm đạt được một lợi ích nhất định và đều mong muỗn đạt được một hiệu quả cao nhất. Nguyên tắc trung thực và ngay thẳng nhằm ngăn chặn tình trạng các bên tham gia lợi dụng sơ hở, sự yếu thế của bên kia, để đạt được lợi ích quá cao so với công sức mình bỏ ra.
Những nguyên tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng dân sự được ghi nhận trong BLDS nhằm tạo ra sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao kết hợp đồng, hướng dẫn xử sự của chủ thể trong quá trình giao kết, bảo đảm thiết lập quan hệ hợp đồng hợp pháp. Trên cơ sở nguyên tắc này toàn bộ hoạt động giao kết hợp đồng phải tuân thủ triệt để nội dung đòi hỏi của nguyên tắc.
Hoạt động đầu tiên trong giao kết hợp đồng đó là việc đề nghị giao kết hợp đồng quy định tại điều 396 BLDS. Nội dung điều luật quy định việc một bên thể hiện ý chí của mình bằng lời đề nghị bên kia giao kết hợp đồng. Trong lời đề nghị phải thể hiện được nội dung chủ yếu cuả hợp đồng. Bởi vì thông qua lời đề nghị, người được đề nghị phải hình dung được những điều kiện do bên đề nghị đưa ra và cân nhắc có thể chấp nhận hay từ chối đề nghị đó. Về nguyên tắc khi đưa ra đề nghị, bên đề nghị sẽ bị ràng buộc bởi lời đề nghị của mình.Trách nhiệm ràng buộc người đề nghị phải tham gia ký kết hợp đồng khi người được đề nghị chấp nhận đề nghị đúng với điều kiện mà bên đề nghị đưa ra. Trường hợp đưa ra đề nghị, bên đề nghị có thể ấn định một thời gian trả lời và khi đưa ra thời hạn trả lời bên đề nghị bị ràng buộc trong thòi hạn đó. Trách nhiệm ràng buộc không cho phép được mời là người thứ ba giao kết hợp đồng với cùng một nội dung đề nghị đó, và nếu người được đề nghị chấp nhận đề nghị trong thời hạn trả lời thì phải giao kết hợp đồng. Tuy nhiên trong nội dung điều 396 BLDS chưa thể hiện rõ trách nhiệm của người đề nghị trước lời đề nghị của mình, cũng như việc vi phạm không ký kết hợp đồng khi bên được đề nghị đồng ý giao kết hợp đồng có thể làm cho quy định trở thành hình thức. Việc đưa ra đề nghị mới chỉ là một bên thể hiện ý chí của mình, để xác lập hợp đồng phải có sự thống nhất ý chí của các bên. Do đó phải có hoạt động tiếp theo là việc chấp nhận đề nghị phải bảo đảm chấp nhận tòan bộ nội dung (điều khoản) do bên đề nghị đưa ra. Việc thay đổi một điều khoản nào đó trong nội dung đề nghị, hay có thêm một điều khoản mới kèm theo, sẽ thay đổi tính chất của lời đề nghị. Lúc này sự trả lời chấp nhận đó lại trở thành lời đề nghị mới đưa ra đối với bên đề nghị. Việc trả lời chấp nhận đề nghị chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn chờ trả lời. Trên thực tế đối với trường hợp đề nghị được trao đổi phải thông qua trung gian hay thông qua các phương tiện thông tin khác như điện tín, bưu điện... buộc phải có thời hạn trả lời, để các bên tiếp nhận thông tin của nhau. Trong trường hợp các bên trực tiếp gặp gỡ nhau thỏa thuận (kể cả qua điện thoại) thì về nguyên tắc thì bên được đề nghị phải trả lời ngay: Chấp nhận hay từ chối đề nghị trừ trường hợp bên đề nghị có ấn định thời gian trả lời. Việc trả lời chấp nhận đề nghị có hiệu lực khi thực hiện trong thời hạn trả lời, tức là chứng tỏ hợp đồng được giao kết. Nhưng nếu đã hết thời hạn trả lời, thì việc trả lời chấp nhận đề nghị trở thành đề nghị mới của bên chậm trả lời. Do đó, bên đề nghị có quyền xem xét để trả lời chấp nhận hay từ chối đề nghị mới. Vấn đề thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng dân sự Điều 397 BLDS
có ý nghĩa pháp luật quan trọng, bởi vì nó quyết định có hay không có hợp đồng dân sự. Trong khoản 3 điều 367 BLDS đưa ra trường hợp trả lời đề nghị thông qua bưu điện và xác nhận ngày gửi đi theo dấu bưu điện và thời điểm trả lời. Quy định này có mâu thuẫn với khoản 1 điều 397 BLDS và do đó trên thực tế xảy ra trường hợp này sẽ không có căn cứ để giải quyết. Nếu đúng ngày cuối cùng của thời hạn trả lời là ngày gửi đi theo dấu bưu điện và luật thừa nhận đó là thời điểm trả lời, có nghĩa là bên được đề nghị trả lời đúng thời hạn. Nhưng trên thực tế thư trả lời có thể đến chậm vài ba ngày so với thời hạn đã ấn định. Trong trường hợp này có buộc bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình và phải ký hợp đồng hay không và như vậy sẽ mâu thuẫn với cả điều ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status