Tìm hiểu mối quan hệ giữa chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước trung ương - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Tìm hiểu mối quan hệ giữa chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước trung ương
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một hệ thống bao gồm nhiều cơ quan (loại cơ quan) nhà nước có tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất. Trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chủ tịch nước là một trong những thành tố quan trọng và trong hiến pháp có hẳn một chế định pháp luật về chủ tịch nước. Để phát huy cao độ uy tín và trách nhiệm của mình trong quản lí nhà nước thì chủ tịch nước phải gắn bó chặt chẽ đối với các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là cơ quan nhà nước ở Trung ương. Vậy nên, bài tập này em xin đi sâu vào: “Mối quan hệ giữa chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở trung ương”

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát chung
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong hệ thống chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi (vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, Hội đồng nhà nước, Chủ tịch nước), vị trí, chức năng khác nhau tùy thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nhưng có một điểm chung là đều là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt cho Nhà nước về mặt đối nội, đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước. Theo Điều 101, Hiến pháp năm 1992 thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa về mặt đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước được trao nhiều quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, là người giữ quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, Chủ tịch nước không phải là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hay cơ quan quản lí nhà nước… Chủ tịch nước xét trên nhiều phương diện là cơ quan có vị trí đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phối hợp thống nhất giữa các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước của các quốc gia trên thế giới mặc dù có các tên gọi khác nhau là nghị viện hay Quốc hội nhưng đều thay mặt cho nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (theo Điều 83, Hiến pháp năm 1992). Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề trọng đại nhất của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt đọng của cơ quan nhà nước trong đó có Chủ tịch nước. Còn Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, có trách nhiệm tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kì họp Quốc hội, có thể triệu tập kì họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch nước. Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước có mối quan hệ mật thiết trong lĩnh vực lập pháp.
Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lí việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đôi ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân (theo Điều 109, Hiến pháp năm 1992). Chủ tịch nước và Chính phủ có mối quan hệ chặt chẽ trong lĩnh vực hành pháp.
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân (theo Điều 126 hiến pháp 1992). Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự (theo Điều 134, hiến pháp năm 1992). Còn Viện kiểm sát Nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan Chính quyền địa phương, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao có mối quan hệ quan trọng với Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp.

II. Các mối quan hệ của Chủ tịch nước đối với các cơ quan Nhà nước ở Trung ương
1. Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội (theo điều 102, Hiến pháp năm 1992), theo sự giới thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc hội với nhiệm như nhiệm kì của Quốc hội và chịu báo cáo công tác trước Quốc hội. Điều này cho thấy tính phái sinh và gắn bó giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Về mặt lí luận thì trong trong chính thể xã hội chủ nghĩa, các chức năng đứng đầu Nhà nước cũng thuộc về chính cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội).
Ví dụ như trong kì họp Quốc họp diễn ra vào tháng 6/2006. Ngày 27/6/2006, sau khi đắc cử Chủ tịch Quốc hội, ông Nguyễn Phú TRọng đã đọc tờ trình giới thiệu ông Nguyễn Minh Triết (Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh) vào chức danh Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã được 61/64 đoàn đại biểu Quốc hội đồng ý hoàn toàn việc đề cử ông Nguyễn Minh Triết vào vị trí Chủ tịch nước là kết quả thăm dò các đoàn đại biểu trước khi tiến hành bỏ phiếu người đứng đầu Nhà nước. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã trúng cử với tỉ lệ gần 94%.
Vậy nên trước đây, Hội đồng nhà nước nằm trong Quốc hội là chủ tịch tập thể. Nay hiến pháp năm 1992 tách Chủ tịch nước thành một thiết chế riêng song vẫn nghiêng về phía Quốc hội chứ không gắn với Chính phủ như ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 hay thuộc về hành pháp như nguyên thủ quốc gia ở đa số các nước tư bản là những quan điểm phù hợp.
Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu và bãi miễn Phó chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước.
Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước nếu các văn bản đó trái với pháp luật Hiến pháp, Nghị định của Quốc hội.
Chủ tịch nước có quyền trình các dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hay sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 62 Luật tổ chức Quốc hội).
Ví dụ: ngày 14/12/2010, văn phòng Chủ tịch nước đã họp báo công bố lệnh số 17/2010/L-CTN của Chủ tịch nước công bố Luật khoáng sản (sửa đổi). Luật được Quốc hội thông qua kì họp thứ 8 của Quốc hội khóa XII vừa qua, luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2011. Văn phòng chủ tịch nước còn công bố luật Bảo vệ người tiêu dùng và Luật viên chức.

/file/d/0Bz7Zv9 ... sp=sharing
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status