Tiểu luận Tìm hiểu ba vụ việc tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Tìm hiểu ba vụ việc tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng



Dàn bài
I/Đặt vấn đề
II/ Ba vụ việc tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng
1. Tìm hiểu khái quát về di sản dùng vào việc thờ cúng
2. Tình huống 1
3. Tình huống 2
4. Tình huống 3
III/ Kết luận
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39707/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Dàn bài
I/Đặt vấn đề
II/ Ba vụ việc tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng
Tìm hiểu khái quát về di sản dùng vào việc thờ cúng
Tình huống 1
Tình huống 2
Tình huống 3
III/ Kết luận
Bài làm
I/Đặt vấn đề
Thờ cúng là cách biểu thị tấm lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như sự yêu thương và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ ,đây là một trong những tập tục của nhiều dân tộc Đông Nam Á và đặc biệt phát triển trong văn hóa Việt và văn hóa Trung Hoa .Do nhu cầu của người đã mất cũng như người thân của họ để đảm bảo việc thờ cúng mình và thờ cúng tổ tiên được chu toàn hơn, một số người thường để lại di sản sau khi qua đời cho người thân thích của họ dùng vào việc thờ cúng , dẫn đến một số tình trạng tranh chấp di sản dùng vào việc thờ cúng đó. Chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu 3 vụ việc cụ thể vể tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng.
II/ Ba vụ việc tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng
Tìm hiểu khái quát về di sản dùng vào việc thờ cúng:
-Khái quát về di sản thừa kế:
Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại cho những người còn sống. Theo quy định tại Điều 634 BLDS năm 2005: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Như vậy, di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết, quyền về tài sản của người đó.
-Khái quát về di sản dùng vào việc thờ cúng:
Nhà nước tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, cho nên, trong Pháp lệnh thừa kế trước đây và ngày nay Điều 670 BLDS đã quy định người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế thực hiện việc thờ cúng. Điều 670 BLDS quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau :
1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản đùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Di sản dùng vào việc thờ cúng được để lại theo ý nguyện của người lập di chúc, di sản này không chia mà được giao cho một người quản lý.Di sản này có thể là một tài sản cụ thể (cây lâu năm, nhà ở,…).Nếu là tài sản hay cây lâu năm, người quản lý có quyền thu hoa lợi, lợi tức và dùng nó để thực hiện việc thờ cúng.Người quản lý không được sử dụng vào mục đích của riêng mình. Không có quyền định đoạt di sản này. Trường hợp người đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng mà không có điều kiện để tiếp tục quản lý di sản đó, những người thừa kế sẽ thỏa thuận giao cho người khác quản lý.
Tình huống 1
Nguyên đơn: Ông Quách Miêng, sinh năm 1943; trú tại 37/1 Nguyễn Thái Học, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang;
Bị đơn: Ông Quách Trí (tức Quang), sinh năm 1932; trú tại 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Quách Lệ Chu, sinh năm 1924; trú tại số 19 Thành Thái, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
a. Tóm tắt nội dung vụ việc:
Sinh thời, cụ Minh và cụ Hiền tạo lập được nhiều nhà đất tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Trước năm 1973, hai cụ đã phân chia một số nhà đất cho các con là Quách Miêng, Quách Trí,Quách Lệ Chu. Năm 1973, ông Trí bán căn nhà 39 Bạch Đằng, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (do cụ Minh và cụ Hiền cho) và về chung sống cùng hai cụ tại căn nhà 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Tháng 5-1973 cụ Minh chết không có di chúc.
Ngày 31-12-1974, cụ Hiền lập tờ “Tổng kết tài sản, cũng là chúc ngôn tổng quát” và “Tờ cho đứt đất thổ cư và phố trệt” phân chia tài sản và được các con của cụ Minh và cụ Hiền đồng ý, có xác nhận của chính quyền nơi cụ Hiền sinh sống (phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang). Trong các văn bản nêu trên, cụ Hiền thể hiện ý chí để lại căn nhà số 2 (nay mang số 2A) Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang làm di sản thờ cúng “ngày nay cũng như ngày mai và vĩnh viễn được để lập hương hoả”, “căn nhà và phần đất này được xem như bất khả xử phân”.
Sau khi hiến cho Nhà nước 27 căn nhà và 2 thửa đất, tài sản của cụ Hiền và cụ Minh còn lại căn nhà 2A Nguyễn Đình Chiểu, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang trên diện tích đất 483,53 m2 và thửa đất thổ mộ 1985 m2 (ngang thất Cao Đài) tại đường Nguyễn Trung Trực, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Năm 1980, cụ Hiền chết; ông Trí trực tiếp quản lý toàn bộ di sản của cụ Minh và cụ Hiền. Ông Trí đã kê khai, nộp thuế đối với đất thổ mộ. Ngày 1-3-1990 Uỷ ban nhân dân thị xã Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá), tỉnh Kiên Giang đã xác nhận ông Trí và bà Tô Thị Tám (vợ của ông Trí) là chủ sở hữu đối với thửa đất thổ mộ ngang thất Cao Đài tại “Giấy xác nhận đất hoa màu” do ông Quách Trí lập.
Tại đơn khởi kiện đề ngày 2-9-1993,Ông Miêng yêu cầu được chia căn nhà 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang và thửa đất thổ mộ có diện tích 1985 m2 nêu trên.
Ông Trí không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của ông Miêng vì căn nhà 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang là di sản dùng để thờ cúng; phần đất thổ mộ ông trực tiếp quản lý, canh tác, nộp thuế, kê khai và đã được xác nhận là chủ sử dụng đất năm 1990. Trong quá trình quản lý, sử dụng thửa đất thổ mộ, ông có bán cho một số người và có chia một phần tiền, vàng cho ông Miêng.
Bà Quách Lệ Chu không yêu cầu chia thừa kế.
b. Cách giải quyết của Tòa án:
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 12/DSST ngày 25-7-1995, Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu của ông Quách Miêng được chia thừa kế căn nhà số 2A đường Nguyễn Đình Chiểu theo pháp luật.
- Xử: Chia cho ông Quách Miêng được hưởng kỷ phần bằng 1/6 của căn nhà số 2A bằng 77.881.381đ.
- Chấp nhận yêu cầu của ông Quách Miêng được hưởng phần nhà sau của căn nhà số 2A có diện tích bằng 111,19m2 có giá trị bằng 126.185.816 đ
- Khi sử d...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status