Tiếp nhận thơ Đường tại Việt Nam - pdf 14

Download miễn phí Chuyên đề Tiếp nhận thơ Đường tại Việt Nam



MỤC LỤC
Phần một
LÝ THUYẾT MỸ HỌC TIẾP NHẬN
► VÀI NÉT VỀ LÝ THUYẾT MỸ HỌC TIẾP NHẬN / 1
► Lý luận tiếp nhận văn học ở Việt Nam / 5
Phần hai
tiếp nhận thơ Đường tại Việt Nam
► Quá trình tiếp nhận thơ Đường tại Việt Nam / 7
► Đường thi trong SGK Phổ thông ở Việt Nam / 11
► tiếp nhận Phong kiều dạ bạc tại Việt Nam / 26
► TIẾP NHẬN HOÀNG HẠC LÂU Ở VIỆT NAM / 33
► TIẾP NHẬN TỲ BÀ HÀNH TẠI VIỆT NAM / 44
 
 
 
 
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

đây, tác giả bác bỏ ý kiến “giang phong, ngư hỏa” là địa danh. Đồng thời cũng cho rằng, nếu như có Ô Đề thôn và Sầu Miên sơn là do bài thơ khi đã nổi tiếng, người ta mới đổi tên như vậy.
Năm 1997, trên Tạp chí Hán Nôm, số 3(32)/1997, trang 63, xuất hiện bài của ông Trần Đắc Thọ: Tư liệu mới về một bài thơ Đường nổi tiếng, nêu những thắc mắc của các học giả Trung Quốc, Nhật Bản, Phương Tây về nội dung của Phong Kiều dạ bạc. Những thắc mắc quay quanh tới những vấn đề có thể tóm lược như sau:
- Quạ không phải là giống chim đi ăn đêm;
- “Ô đề” là tên thôn;
- “Giang phong”, “ngư hoả” là địa danh;
- Cây được nói đến trong bài thơ là cây ô bách;
- “Sầu miên” là tên ngọn núi, là hòn đá…
Ông này còn cung cấp thông tin: Năm 1996 vợ chồng ông Trần Chung Ngọc, có dịp thăm chùa Hàn Sơn, và cho biết: “Giang Phong” là tên hai cây cầu: Giang Kiều và Phong Kiều. Vì thế Trần Đắc Thọ có yêu cầu “cần xem lại đám địa danh, vì trong bài thơ bất tử nói trên không thể nào lại chứa đựng nhiều tên riêng như thế”. Bằng một vài thao tác, ông không công nhận “ngư hoả” là địa danh, “sầu miên” là núi, là tên hòn đá… và khẳng định, Ô Đề là tên thôn; cách dịch: “Trăng lặn Ô Đề, sương bát ngát/ lửa chài, cầu cổ, giấc sầu vương”, cho thấy ông đã thừa nhận thuyết “giang phong” là tên hai cây cầu.
Cũng trong năm này, ông Nguyễn Hà trong chuyến thăm Tô Châu, đã tìm hiểu về những tên gọi trên. Bằng cách rất khéo léo, hỏi tìm về những địa danh đó, tác giả đã tìm được câu trả lời. Người dân ở đây không biết thôn Ô Đề, núi Sầu Miên… Tác giả đã viết bài báo tui đã đến chùa Hàn San đăng trên Tuần du lịch, số Tết Mậu Dần, 1998 và được Nguyễn Khắc Phi đưa vào Thơ văn cổ điển Trung Hoa - mảnh đất quen mà lạ. Cũng trong cuốn sách này, với bài viết Bàn thêm về cách hiểu và dịch bài thơ Phong Kiều dạ bạc, Nguyễn Khắc Phi cũng phản đối cách hiểu “Ô đề” là tên thôn, “Sầu miên” là tên núi: “Đọc chú thích bài thơ này ở sách giáo khoa Trung Quốc - ở Trung Quốc loại sách này có tính pháp lý rất cao - dù là của Nhân dân Giáo dục Xuất bản xã (Bắc Kinh) hay của Chiết Giang, Giang Tô…, không hề thấy ai quan niệm “ô đề”, “sầu miên” là địa danh cả. Vả lại, nếu chúng là địa danh thì ý bài thơ sẽ rất rời rạc, không thể có được những mối liên hệ nội tại”. Bài viết cũng đề cập đến việc cái thần của câu thơ cuối chưa được Tản Đà làm nổi bật.
Thực ra vấn đề địa danh hoá một số từ ngữ trong nội dung bài thơ này đã được đề cập từ lâu. Trong Đến Han San tự để tìm hiểu bài thơ Phong Kiều Dạ bạc của Trương Kế (Tạp chí Hán Nôm, số 1 (50), 2002), tác giả Nguyễn Quảng Tuân đã dẫn ra trong văn thơ Lý Bạch với bài Ô dạ đề và Kim Thi trong bài Tự thuật có câu: “Không phòng dạ dạ văn đề ô” (Đêm đêm nghe thấy quạ kêu ở ngoài phòng vắng). Hay trong bài thơ Việt Nam, Quách Tấn với bài: Đêm thu nghe quạ kêu có hoàn cảnh: “Đó là vào một buổi tối cuối thu Đinh Mão (1927), trăng mờ mờ, từ bến đò An Thái, ven bờ sông Côn trở về nhà, qua một khúc đường vắng, tui đã nghe thấy một bầy quạ thình lình kêu vừa rùng rợn, vừa lạnh lùng”. Và ông bác bỏ “ô đề” là tên thôn. Một lần nữa bằng cách trích dẫn: “… Đời Thanh có Mao Tiên Thư cho rằng: ở Tô Châu, đối diện với chùa Hàn San có núi Sầu Miên, nên câu: ‘Giang phong Ngư Hoả đối Sầu Miên’ không thể hiểu là cây phong bên bờ sông và ánh đèn thuyền chài lấp lánh trước mặt khách (tác giả) đã làm cho khách xa nhà nhớ quê không sao ngủ được.” Và trong quyển Hội đồ thiên gia thi, Chung Bá Kính cũng chú giải: Giang Phong tên phố chợ, Sầu Miên tên núi, ngư hỏa là ánh đèn trên thuyền chài, Cô Tô thành tức là thành Tô Châu, Hàn San tự có tượng Phật tên là Hàn San, nguyệt lạc ô đề chỉ đêm đã khuya rồi. Lúc ấy sương xuống đầy trời, các ánh đèn chài trước phố chợ Giang Phong lấp lánh đối diện với ngọn núi Sầu Miên mà trong khi ấy ở ngoài thành Tô Châu tiếng chuông chùa Hàn San ngân vọng tới tận thuyền khách đậu bến Phong Kiều. Cảnh đêm là như vậy.
Nguyễn Quảng Tuân đã cho thấy, việc địa danh hoá xảy ra từ lâu và xảy ra ở ngay chính nơi mà Phong Kiều dạ bạc được sinh ra.
Tác giả Nguyễn Cảnh Phức lại có hẳn một bài viết bàn về câu thứ hai của bài thơ: Một cách tiếp cận bài thơ Phong Kiều dạ bạc in trong Tạp chí Hán Nôm số 5 (66) / 2004. ở bài viết này, chúng ta lại trở lại vấn đề “ai đối cảnh mà sầu? ai đeo sầu mà ngủ?” Tác giả đã đưa ra 3 cách hiểu khác nhau của 3 tác giả khác nhau:
+ Nguyễn Thị Bích Hải trong cuốn Bình giảng thơ Đường dịch: Cây phong bên bờ sông, ngọn lửa đèn chài, (khách) ngủ với nỗi buồn.
- Nguyễn Khuê trong cuốn Tự học Hán văn [Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995, tr 294] dịch: Hàng cây phong bên bờ sông, ánh đèn thuyền chài đối cùng khách đang thao thức sầu (trong khoang thuyền đậu tại bến Phong Kiều).
+ Nguyễn Quảng Tuân lại hiểu: Khách (tác giả) nằm trong thuyền ngó ra ngoài thấy hàng cây phong ở bên bờ sông và những ánh đèn thuyền chài trước bến trong lòng sinh ra buồn bã nên cứ mơ màng ngủ.
+ Nguyễn Danh Đạt dịch: Ngọn đèn sáng trong thuyền chài rọi soi giấc ngủ đượm nét buồn (của khách)” trong Bình và chú giải 100 bài thơ Đường hay nhất [Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1999];
+ Nguyễn Hà trong Thơ nghìn nhà [Nxb Văn hoá Hà Nội, 1994] dịch: Hàng cây đôi bờ lửa chài hắt lên lơ mơ buồn đứng ngủ;
+ Ngô Văn Phú trong Đường thi tam bách thủ [Nxb Hội nhà văn, 2000] dịch: Gió sông, lửa thuyền chài, gối sầu mà ngủ v.v.
Đã có rất nhiều cách hiểu khác nhau ở câu thơ thứ hai này. Tựu chung lại, người thì cho rằng cả “giang phong”, “ngư hoả” và “khách” đều “ngủ với nỗi buồn”, người lại cho rằng “khách” đang “thao thức sầu”, “trong lòng sinh ra buồn bã nên cứ mơ màng không ngủ được”. Nguyễn Cảnh Phức đã dịch: “Rặng cây phong bên bờ sông và ngọn lửa trên thuyền chài đang đối diện với nhau mà ngủ một cách buồn sầu”. Tác giả đã phân tích và lý giải theo cấu trúc ngữ pháp:
江 楓 魚 火



Chủ ngữ
Vị ngữ 1
Tr. ngữ
Vị ngữ 2
江 楓 魚 火
對 愁 眠
Chủ ngữ
Vị ngữ
Cách làm này đã gặp sự phản đối của GS. Kiều Thu Hoạch trên bài viết Lại bàn về bài Phong Kiều dạ bạc - một bài thơ gây xôn xao dư luận ngàn đời. Có thể nói đây cũng là bài viết thâu tóm đầy đủ những thông tin, những thắc mắc của các học giả, những vấn đề mà các học giả quan tâm. Ông cho rằng, con đường ngắn nhất, khoa học nhất để tìm hiểu các từ ngữ trong bài thơ là tìm đọc những chú giải của các nhà biên khảo người Trung Quốc. Qua bài viết này, tác giả cũng cho thấy được sức lan toả về mặt văn hoá của kiệt tác văn học Phong Kiều dạ bạc. Chúng tui ở đây xin lược thuật một số ý từ bài viết đó.
Như đã nói ở trên, tại Trung Quốc, những thắc mắc về nội dung của bài thơ đã nổi lên từ khi Âu Dương Tu viết trong sách Lục nhất thi thoại, cho câu thơ thứ tư không chân thực (xin xem phần viết trước). Nhiều nhà văn, nhà thơ lúc đương thời đã tỏ ý khôn...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status