Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt - pdf 14

Link tải miễn phí luận văn
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có thể nói vấn đề tình thái trong ngôn ngữ không phải là mới. Từ triết học Hy Lạp cổ đại,
khái niệm tình thái của logic học được hình thành dựa trên tính hiện thực (reality), tính tất yếu
(necessity) và tính khả hữu (possibility) được phản ảnh trong ngôn ngữ tự nhiên với muôn vàn
sắc thái đa dạng. Khi sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt về thế giới thực tại, người ta không thể
không lưu ý đến mối quan hệ giữa cách con người diễn đạt về thế giới và chính bản thân thế giới
đó. Theo nghĩa rộng, có thể hiểu nói về tình thái là nói về cách mà con người diễn đạt khác nhau
về thế giới.
Hơn nữa một trong hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ là giao tiếp xã hội. Trong quá trình
giao tiếp, hoạt động trao đổi giữa người nói và người nghe là hoạt động được tiến hành từ cả hai
phía. Trong mỗi câu nói của người này hay người kia ngoài nội dung nghĩa biểu hiện, tức nghĩa
biểu thị sự tình trong thế giới khách quan, còn có một nội dung nghĩa biểu thị mối quan hệ giữa
sự tình với thế giới khách quan hay thái độ của người nói. Nội dung đó, ta gọi là tình thái của
câu. Charles Bally đã cho rằng tính tình thái là linh hồn của câu. Không thể tạo ra ý nghĩa lời nói
nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy một biểu hiện nào đó của tính tình thái.
Mặt khác vấn đề tình thái mà cụ thể là tình thái giảm nhẹ (TTGN) còn gắn liền với tính lịch
sự trong giao tiếp, gắn với ngôn ngữ trong sự hành chức của nó. Không thể chỉ xem xét ngôn
ngữ như một yếu tố tĩnh tại mà là một hoạt động mang tính liên cá nhân. Giao tiếp như thế nào
để đạt được hiệu quả giao tiếp và hơn thế nữa làm thế giao tiếp phải thể hiện nét văn hóa, lịch sự
là một điều quan trọng. Nắm bắt về TTGN mà cụ thể là việc nắm bắt hệ thống các phương tiện
biểu thị TTGN sẽ góp phần giúp cho hoạt động giao tiếp đạt được những yêu cầu này.
Về lĩnh vực tình thái trong tiếng Việt, từ những năm 40 với các tác giả Trần Trọng Kim,
Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ trong “Grammaire Annamite”, tình thái đã được chú ý đến khi các tác
giả đề cập đến “thái độ của người nói”. Sau này, những nghiên cứu có tính chất khai phá và đi
sâu hơn về tình thái đã xuất hiện với các tác giả như Hoàng Phê [64], [65]; Nguyễn Đức Dân
[11]; Cao Xuân Hạo [23], [24], [25]. Rồi đến những chuyên khảo về tình thái cũng liên tục xuất
hiện từ Phạm Hùng Việt [92]; Nguyễn Văn Hiệp [28], [29], [30], [31]; Phạm Thị Ly [51];
Nguyễn Thị Lương [48]; Nguyễn Thị Ngọc Hân [27]…Các tác giả nghiên cứu nhiều phương
diện của vấn đề tình thái như: nghĩa tình thái của từ; logic tình thái đến logic ngôn ngữ học; từ
ngữ pháp chức năng đến ngữ dụng học và đặc trưng tình thái của từ, của câu; chuyên sâu hơn về
đặc điểm chức năng của trợ từ tiếng Việt, về tiểu từ tình thái, vị từ tình thái…Tuy nhiên, nghiên
cứu về TTGN mà cụ thể hơn nghiên cứu chi tiết để hệ thống hóa các phương tiện diễn đạt TTGN
trong diễn ngôn tiếng Việt vẫn còn bỏ ngỏ cho dù thực tế việc sử dụng các phương tiện biểu thị
TTGN rất phổ biến trong diễn ngôn tiếng Việt
Những vấn đề đã trình bày ở trên đã khuyến khích chúng tui chọn đề tài “Tình thái giảm nhẹ
trong diễn ngôn tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Về mặt lí luận: Trên cơ sở kế thừa và phát triển các thành tựu đã có, khi nghiên cứu về
TTGN và xây dựng được một hệ thống các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng
Việt, chúng tui hy vọng mang đến một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn về vấn đề tình thái trong
ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Việt nói riêng.
Về mặt thực tiễn: Chúng tui mong rằng luận văn sẽ góp phần trong việc ứng dụng cho việc
giao tiếp và dạy tiếng. Giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả tối ưu khi biết vận dụng những phương
tiện tình thái trong đó có phương tiện TTGN. Việc dạy tiếng Việt cho người Việt cũng như cho
người nước ngoài sẽ đơn giản hơn, hiệu quả hơn khi chúng ta giúp họ nhận biết và sử dụng một
hệ thống phương tiện biểu thị tình thái nói chung TTGN nói riêng của tiếng Việt. Bởi nó là một
trong những cơ sở để người nói tạo dựng phát ngôn cũng như để người nghe tiếp nhận và nắm
bắt đúng ý định giao tiếp của người nói.

2. Lịch sử vấn đề
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TTGN, các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn
ngôn tiếng Việt nhưng qua quá trình tổng hợp và tham khảo tài liệu chúng tui nhận thấy những
công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề trên còn rất hạn chế, có thể nói chỉ có một bài viết
của tác giả Nguyễn Xuân Thơm [79] là đề cập đến TTGN nhưng giới hạn trong diễn ngôn đàm
phán thương mại quốc tế. Bởi vậy, trong phần lịch sử vấn đề, chúng tui sẽ điểm qua một số công
trình nghiên cứu có tính chất nổi bật về vấn đề tình thái trong tiếng Việt nói chung, trong đó có
những nghiên cứu đề cập đến một số vấn đề về phương tiện biểu thị tình thái.

Về các tác giả nước ngoài: Các tác giả I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev,
Bystrov khi viết về ngữ pháp tiếng Việt (bằng tiếng Nga) đã có đề cập đến tiểu từ tình thái. Họ
phân loại tiểu từ tình thái theo tiêu chí ngữ nghĩa như: tiểu từ có tính chất nghi vấn, tiểu từ nhấn
mạnh, tiểu từ chỉ ra sự đối lập. Tuy nhiên họ xem tiểu từ tình thái như là một từ loại của tiếng
Việt hơn là một phương tiện biểu thị tình thái [theo 51; 34]. Một tác giả nước ngoài khác cũng
quan tâm đến ngữ pháp tiếng Việt, đó là V.S. Panfilov (2003). Trong chương VIII của cuốn sách
“Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt” [62] (cũng viết bằng tiếng Nga do Nguyễn Thủy Minh dịch), ông
đã trình bày về bán hư từ, trong đó có đề cập ngắn gọn đến từ tình thái. Ông cho rằng: “Lớp ngữ
pháp này bao gồm những từ như: có lẽ, hình như, quả nhiên, đương nhiên…Những từ này được

21wf2V64L2Fh4Wb
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status