Tình hình triển khai bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại Bảo Minh Hà Nội giai đoạn 2000 – 2005 - pdf 14

Download miễn phí Luận văn Tình hình triển khai bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại Bảo Minh Hà Nội giai đoạn 2000 – 2005



Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội (Bảo Minh Hà Nội) thành lập ngày 05/05/1995, là một trong số 44 công ty thành viên của Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Minh và là chi nhánh lớn nhất của Bảo Minh tại miền Bắc. Hiện nay, chi nhánh có 60 cán bộ nhân viên tổ chức theo 6 phòng ban, 9 văn phòng khu vực và đã triển khai hầu như tất cả các nghiệp vụ chủ yếu trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Sơ đồ tổ chức phòng ban của chi nhánh được thể hiện như sau:
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


- Đối với nhà cửa: căn cứ vào chi phí sửa chữa
- Đối với thành phẩm: Căn cứ là giá thành sản xuất, nhưng trong trường hợp giá thành sản xuất cao hơn giá bán thì lại phải căn cứ vào giá bán.
- Đối với bán thành phẩm: căn cứ vào chi phí sản xuất tính đến thời điểm xảy ra tổn thất.
- Đối với hàng hoá trong kho và ở các của hàng: căn cứ vào giá mua mà người tham gia bảo hiểm đã trả.
- Đối với máy móc thiết bị và các tài sản khác: nếu có thể sửa chữa ược thì căn cứ vào chi phí sửa chữa còn nếu không sửa chữa được hay có thể sửa chữa được nhưng chi phí sửa còn cao hơn cả giá mua mới thì căn cứ vào chi phí mua mới trừ đi khấu hao (nếu bảo hiểm theo giá trị còn lại).
Đối với bảo hiểm hoả hoạn, công ty bảo hiểm sẽ căn cứ vào biên bản giám định để xét bồi thường theo một trong hai cách sau:
Cách 1:Bồi thường theo quy tắc tỷ lệ phí
Trong trường hợp nếu người tham gia bảo hiểm chưa nộp đầy đủ mức phí đã ấn định mà đã xảy ra tổn thất thì số tiền bồi thường của bảo hiểm được tính toán như sau:
Số tiền Giá trị tổn thất Phí bảo hiểm đã đóng
= *
bồi thường thực tế Phí bảo hiểm lẽ ra phải đóng
Cách 2: Bồi thường theo quy tắc tỷ lệ số tiền bảo hiểm
Mục đích là tránh cho công ty bảo hiểm phải chịu những phiền toái về khiếu nại đồng thời ngăn ngừa người tham gia bảo hiểm trục lợi bảo hiểm. Theo cách này, việc bồi thường được quy định như sau :
- Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất STBH bằng với GTBH của tài sản thì STBT ngang bằng với giá trị tổn thất thực tế.
- Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất số tiền bảo hiểm (STBH) nhỏ hơn giá trị thực tế của tài sản được bảo hiểm thì số tiền bồi thường (STBT) được tính :
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = GTTT thực tế *
Giá trị bảo hiểm
- Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất mà giá trị thực tế của tài sản trên thị trường lớn hơn giá trị của tài sản khi tham gia bảo hiểm theo đánh gía thì số tiền bồi thường là:
Giá trị tài sản khi tham gia bảo hiểm
STBT = GTTT thực tế *
Giá trị tài sản tại thời điểm xảy ra tổn thất
- Nếu tại thời điểm tài sản bị phá huỷ hay hư hỏng trong khi bảo hiểm mà tài sản được bảo hiểm bằng một HĐBH khác thì công ty bảo hiểm cũng chỉ chịu trách nhiệm giới hạn ở phần tổn thất phân bổ cho hợp đồng mà mình bảo hiểm theo tỷ lê. Cụ thể:
Giá trị tài sản đánh giá khi Tỷ
tham gia bảo hiểm lệ
STBT = GTTT thực tế * * bảo
Giá trị tài sản tại thời điểm hiểm
xảy ra tổn thất
IV.Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả triển khai hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
IV.1. Hiệu quả hoạt động khai thác
Hiệu quả của hoạt động khai thác không như các hiệu quả của các khâu khác, nó được thể hiện trực tiếp qua doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm.
Kết quả khâu này thể hiện chủ yếu ở một số chỉ tiêu như sau:
- Số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm (số hợp đồng bảo hiểm đã được kí kết, số giấy chứng nhận bảo hiểm, số đơn bảo hiểm đã cấp),
- Số phí bảo hiểm thu được,
- Số tiền bảo hiểm,
- Số tiền bảo hiểm bình quân/đơn,
- Tốc độ phát triển của phí bảo hiểm…
Hoạt động khai thác mà tốt thì số lượng khách hàng tham gia càng đông, số phí bảo hiểm nhờ đó mà cũng tăng nhanh, số tiền bảo hiểm cũng tăng…Nhìn chung đây là khâu mà hiệu quả của nó có tác động lớn nhất tới hiệu quả kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động khai thác này cần được đánh giá một cách chính xác và đúng đắn nhất vì đó chính là cơ sở chính để doanh ngiệp đưa ra những kế hoạch và phương pháp khai thác trong những năm tiếp theo.Hiệu quả của khâu này có thể được tính theo công thức sau:
Hiệu quả khai thác Kết quả khai thác trong kỳ
=
bảo hiểm Chi phí khai thác trong kỳ
IV.2. Hiệu quả hoạt động đề phòng hạn chế tổn thất
Để đánh giá được hiệu quả của hoạt động đề phòng hạn chế tổn thất là một điều rất khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, nếu đánh giá được hiệu quả của công tác này thì sẽ giúp ích rất nhiều cho doanh nghiệp bảo hiểm vì nó không những giúp giảm chi phí mà còn là cơ sở để đề ra các biện pháp phòng cháy chữa cháy hiệu quả cho doanh nghiệp trong những năm sau. Ta có thể đánh giá hiệu quả của công hoạt động đề phòng hạn chế tổn thất qua hai cách sau:
- Phân tích mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra trong khâu này với số vụ tổn thất xảy ra với số tiền bồi thường thực tế của doanh nghiệp bảo hiểm. Vì như ta đã biết, hiệu quả của công tác đề phòng hạn chế tổn thất không được phản ánh trực tiếp lên doanh thu như hiệu quả của hoạt động khai thác mà nó lại được thể hiện gián tiếp qua số tiền bồi thường. Số tiền chi cho đề phòng hạn chế tổn thất sẽ góp phần giúp khách hàng của công ty thực hiện các biện pháp phòng cháy chữa cháy, giảm thiểu rủi ro, thiệt hại dẫn tới số tiền bồi thường cũng vì thế mà giảm. Nếu so sánh tương quan thì số tiền bỏ ra chi cho hoạt động đề phòng hạn chế này là nhỏ hơn rất nhiều so với số tiền bồi thường tiết kiệm được do thực hiện tốt các biện pháp đó. Như vậy, tổng chi cho hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cũng giảm, từ đó mà góp phần vào sự tăng trưởng lợi nhuận của công ty.
- So sánh đánh giá các vụ tổn thất xảy ra do các nguyên nhân khác nhau, so với cùng kỳ hay so với kỳ trước khi thực hiện các biện pháp phòng tránh.
Theo cách này thì tuy cùng một nguyên nhân xảy ra tổn thất nhưng số vụ tổn thất và mức độ thiệt hại giữa các kỳ là nhau. Có được điều đó là do côngty bảo hiểm đã tiến hành các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất giữa các kỳ là khác nhau. ở kỳ nào mà công ty áp dụng tốt các biện pháp phòng tránh, hạn chế tổn thất tốt thì không những số vụ tổn thất có xu hướng giảm mạnh mà mức độ thiệt hại cũng giảm. Và ngược lại, số vụ tổn thất với mức độ thiệt hại lớn lại gia tăng vào các kỳ mà công tác đề phòng hạn chế tổn thất không được quan tâm, chú ý.
Như vậy, hiệu quả của công tác đề phòng hạn chế cần được nhìn nhận một cách khách quan và chính xác để từ đó công ty có những quan tâm đúng đắn và hợp lý hơn đối với công tác này. Hiệu quả của công tác này có thể được tính theo công thức sau:
Hiệu quả đề phòng Lợi nhuận trong kỳ
=
hạn chế tổn thất Chi phí đề phòng hạn chế tổn thất trong kỳ
IV.3. Hiệu quả hoạt động giám định bồi thường
Không như hiệu quả của hoạt động khai thác được thể hiện ngay trong doanh thu bảo hiểm mà hiệu quả của khâu giám định bồi thường này lại được thể hiện trực tiếp qua số tiền bồi thường, tức là chi phí bỏ ra trong kỳ của doanh nghiệp.
Hiệu quả của hoạt động giám định bồi thường tổn thất có thể được đánh giá qua một số chỉ tiêu như :
- Số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường trong kỳ
- Số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường trong kỳ
- Số vụ tồn đọng chưa giải quyết bồi thường trong kỳ
- ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status