Những giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ngành Thủy sản Nghệ An - pdf 14

Download miễn phí Chuyên đề Những giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ngành Thủy sản Nghệ An



Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh , mỗi đơn vị đều phải có một lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng. Tuy nhiên có vốn nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả mới là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi ngành kinh tế.
Bởi vậy, phân tích hiệu quả sử dụng vốn là việc cần thiết nhằm thể hiện chất lượng công tác sử dụng vốn, đồng thời đánh giá hiệu quả của nó để có các biện pháp thích hợp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Hiệu quả sử dụng vốn hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, mà hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, môi trường kinh tế – chính trị – xã hội, phong tục tập quán, tính mùa vụ nên hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không nằm ngoài sự ảnh hưởng của các nhân tố đó.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

nước gần 80 triệu thì đay là một thị trường lớn, trong khi nu cầu của nhân dân ngày không ngừng nâng cao về chất cũng như về lượng.
Việc hội nhập của đất nước cũng là điều kiện thuận lợi giúp cho ta có thể tranh thủ các nguồn vốn, đưa công nghệ tiên tiến của nước ngoài vào đẻ phát triển cơ sở hạ tầng cũng như lực lượng sản xast. Những dự án phát triển cơ sở hạ tầng, lực lượng sản xuất trong những năm qua và sắp tới cũng là tiền đề cho sự phát triển tiếp theo.
Hơn nữa sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với hàng loạt chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển ngành thủy sản trong những năm gần đây, cùng với việc củng cố xây sựng quan hệ sản xuất BVMT và BVNL thủy sản sẽ tạo điều kiện tốt cho ngành phát triển sau này.
Nguồn lực lao động : Mặc dù so với nhu cầu, trình độ dân trí còn thấp, nhưng so với mặt bằng các nước láng giềng đang phát triển thì trình độ dân trí nước ta cao hơn. Dân ta có truyền thống nghề cá lâu đời, cần cù sáng tạo. Với chiến lược đào tạo nhân lực của Đảng và Nhà nước ta, đây sẽ là tiền đề cho sự phát triển đầu thế kỷ XXI. Đặc biệt, độ tuổi lao động ở tỉnh Nghệ An vùng nông thôn nghề cá là rất lơn, đáp ứng nhu cầu lao cho công cuộc HĐH - CNH.
I.1.2 - Cơ cấu của ngành Thủy sản Nghệ An
Sở Thủy sản Nghệ An chịu trách nhiệm nắm bắt tình hình sản xuất thủy sản trến địa bàn tỉnh báo cáo trực tiếp với UBND tỉnh kết quả đạt được và những nhu cầu đòi hỏi của các cơ sở sản xuất, từ đó sẽ giúp cho UBND định hướng phát triển kinh té thủy sản trong những năm tiếp theo. Sở cụ thể hóa các chỉ tiêu, lập phương án tổng quan phát triển ngành cá, có những biện pháp cụ thể giúp tháo gỡ những khó khăn cho các đơn vịn sản xuất, đưa ngành kinh doanh Thủy sản tiến lên những nấc thang mới.
Các phòng Thủy sản ở các huyện sau khi phân cấp quản lý cho huyện, vẫn quan hệ gắn bó với Sở Thủy sản.
Có những đơn vị trực thuộc Sở Thủy sản Nghệ An : Công ty Thủy sản Nghệ An, Công ty dịch vụ Thủy sản Diễn Châu, Công ty Thủy sản Quỳnh Lưu, Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Nghệ An, Công ty giống nuôi trồng thủy sản Nghệ An, Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Trung tâm khuyến ngư, xí nghiệp đánh bắt cá Cử Hội.
I.1.3 - Thực trạng phát triển ngành Thủy sản Nghệ An trong những năm qua.
Kết quả đạt được từ năm 2000 - 2002
Danh mục
ĐVT
2000
2001
2002
Tổng sản lượng
Tấn
37.5000
39.300
43.000
- Khai thác
Tấn
29.000
30.000
32.000
- Nuôi
Tấn
8.500
9.300
11.000
Tổng giá trị SP
Tr.đ
265.000
360.000
420.000
- Giá trị xuất khẩu
USD
10.000.000
12.000.000
15.000.000
- Quốc doanh
USD
4.800.000
6.000.000
7.000.000
- CB nước mắm
Tr.lít
10
12
13
- Nạp ngân sách
Tr.đ
7.700
10.200
12.150
Trong 5 năm qua có thể nói ngành thủy sản Nghệ An gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Sự bất lợi về thời tiết không những làm ảnh hưởng đến năng suất khai thác, nuôi trồng, mà còn gây thiệt hại cho ngư dân về người và của. Hậu quả của tình trạng khai thác bất hợp lý kéo dài của những năm trước, của sự suy giảm nguồn lợi vùng lộng…
Tuy nhiên cũng có thể nói đây cũng là khẳng định sự chuyển mình của ngành thủy sản Nghệ An. Những định hướng đã được vạch ra và khẳng định trong năm 2000 - 2001 (như về đầu tư mới, nâng cấp sửa chữa tàu thuyền, xây dựng trạm giống mới…) mặc dù năm 2000 sản lượng đánh cá không đạt được như mong muốn nhưng ngành vẫn kiên trì thực hiện. Kết quả đạt được trong 2 năm 2000 - 2002 đã khẳng định tính đúng đắn của định hướng.
Trước hết về cơ cấu tàu thuyền : Đây là những năm chuyển đỏi mạnh về cơ cấu tàu thuyền theo hướng tăng quy mô sản xuất, sắm mới những thuyền có mã lực lớn phụ vụ công tác đánh bắt xa bờ, giảm bớt tàu thuyền con. So với năm 1999, tổng tàu thuyển giảm 356 chiếc nhưng tổng công suất tăng 32.000 mã lực. Thuyền thủ công giảm từ 449 chiếc xuống còn 80 chiếc, loại 30 - 90CV tăng từ 62 chiếc lên 832 chiếc, trong đó loại lớn hơn 90CV năm 1999 chỉ có 108 chiếc thì nay toàn tỉnh đã có 274 chiếc với công suất 36.600CV. Bên cạnh sự phát triển đội tàu khơi từ chương trình khai thác vùng khơi của Chính phủ, nhân dân Nghệ An thực sự thấy được tính hiệu quả, sự cần thiết của việc đầu tư thay đổi công nghệ tiên tiến chế biến, khai thác thủy sản nên đã mạnh dạn vay vốn đóng mới nhiều tàu có công suất mã lực lớn. Hơn nữa, những thiết bị khai thác hàng hải hiện đại như dò cá, thông tin vô tuyến, định vị vệ tinh… Không những chỉ trng bị ở những đội tàu khơi mà đã phổ biến trang bị cho các loại tàu khác, nhất là huyện Quỳnh Lưu, Cửa Lò, Nghi Lộc.
Có thể nói, Nghệ An là một tỉnh chuyển đổi nhanh cơ cấu tàu thuyền và có đội tàu khơi vào loại lơn nhất ở miền Bắc. Hơn nữa, trong những năm qua cơ cấu nghề nghiệp cũng được chuyển đổi nhanh chóng, nhiều nghề mới có hiệu quả được phát hiện như : Nghề vây rút chì kết hợp ánh sáng, rê khơi, rê tầng đáy, giã tôm nhiều lưới, chụp mực…
Ngư dân đã sử dụng nhiều nghề, chuyển đổi ngư trường để khai thác và đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu.
Chính vì thế sản lượng khai thác năm 2000 đạt 37.500 tấn, tăng 3% so với kế hoạch, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước, năm 2001 đạt 39.300 tấn, năm 2002 đạt 42.000 tấn. Đây là sản lượng khá cao so với các tỉnh có bờ biển dài hơn ( Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Nam Định). Một điều quan trọng là sản lượng khai thác vùng khơi tăng nhanh.
Về nuôi trồng: đây cũng là những năm ngành triển khai mạnh mẽ các chương trình khuyến nông, khuyến ngư để mở rông diện tích nuôi, mở rộng cơ cấu con giống mới có giá trị kinh tế, chuyển giao công nghệ nuôi xen canh tác loại cá có giá trị kinh tế cao như: ba ba, trê lai, rô phi đơn tính, bống trượng. Nhiều mô hình cá lúa, lông bè trên sông, trên biển được mở rộng. Công ty giống và các cơ sở tư nhân đã tích cực cung ứng con giống có chất lượng cao và kịp thời cho nhân dân.
Trong những năm qua, diện tích nuôi trồng đã tăng từ 13.000 ha năm 2000 lên 13.750 năm 2002, sản lượng 8.000 tấn năm 2000 lên 9.200 tấn năm 2002. Một điều có ý nghĩa to lớn là trong những năm qua nuôi trồng thuỷ sản đã trở thành một nghề chính của dân không những ở các huyện vùng biển, đồng bằng mà còn phát triển rầm rộ ở các huyện miền núi. Nuôi cá đã được nhân rộng và có phong trào khá lớn như ở Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Quế Phong… Điều này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn miền núi, góp phần xóa đói giảm cùng kiệt và phục vụ chương trình xóa cây thuốc phiện ở miền núi.
Trong nuôi trồng thủy sản mặn lợ, nhiều năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong khâu công nghệ, giống, thức ăn, nhưng việc nuôi tôm có chiều hướng phát triển tốt. Đặc biệt là sau chuyến đi thăm quan các tỉnh Nam Trung Bộ và các buổi tập huấn của chuyên gia Thái Lan, nhiều hộ ngư dân đã thay đổi suy nghĩ và đã đầu tư theo phương thưc nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh. Nhờ có hệ thống thủy lợi được đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước và các chính sach hỗ trợ phát triển của tỉnh mà năm 2002 nhân dân toàn tỉnh đ
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status