Một số khó khăn khi kiểm toán các Doanh nghiệp cổ phần hóa - pdf 14

Download miễn phí Một số khó khăn khi kiểm toán các Doanh nghiệp cổ phần hóa



Kiểm toán nhiều giai đoạn mà mỗi giai đoạn lại chịu sự điều chỉnh
của nhiều chính sách, chế độ khác nhau là một công việc khó
khăn cho các kiểm toán viên. Đặc biệt là việc phân định rạch ròi
các giai đoạn, ví dụ: thông thường các cơ quan chức năng giao
đơn giá tiền lương trên cơ sở cả niên độ năm tài chính, tuy nhiên
khi thực hiện quyết toán quỹ tiền lương hạch toán vào chi phí thì
phải áp dụng đơn giá tiền lương năm cho số tháng là doanh
nghiệp nhà nước và phải xác định rõ ràng các chỉ tiêu tính lương
như: doanh thu, sản lượng, lợi nhuận của số tháng là DNNN,
mà đôi khi các chỉ tiêu này doanh nghiệp không có số liệu hay
số liệu không đáng tin cậy, chỉ mang tính thống kê.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Một số khó khăn khi kiểm toán các
Doanh nghiệp cổ phần hóa
Chủ trương cổ phần hóa Doanh nghiệp của Đảng
và Nhà nước ta trong các năm qua là một chủ
trương lớn và đang đạt được những kết quả nhất
định. Tuy nhiên trong quá trình cổ phần hóa đang
bộc lộ nhiều mặt hạn chế như: Thời điểm IPO lần đầu, việc đánh
giá giá trị tài sản, cổ phiếu ưu đãi, các thông tin liên quan có lợi
mà các doanh nghiệp chưa thông báo hay cố tình không thông
báo…
Mặt khác các văn bản chế độ, chính sách về cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Việc kiểm
toán đối với các doanh nghiệp trong giai đoạn cổ phần hóa cũng
rất mới mẻ đối với các kiểm toán viên, trong quá trình kiểm toán
cũng phát sinh rất nhiều khó khăn, vướng mắc, thể hiện trên các
mặt:
Theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ
về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ
phần thì doanh nghiệp cần lập báo cáo tài chính ( BCTC ) tại
các thời điểm chính như sau:
Căn cứ vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa đã được cơ quan
có thẩm quyền quyết định, doanh nghiệp có trách nhiệm điều
chỉnh số liệu trong sổ kế toán; bảo quản và bàn giao các khoản
nợ và tài sản đã loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp; lập báo
cáo tại chính doanh nghiệp giai đoạn từ thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển
thành công ty cổ phần.
Trong thời gian từ 01 tháng từ thời điểm được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh lần đầu, doanh nghiệp cổ phần hóa
phải hoàn thành việc lập báo cáo tài chính tại thời điểm đăng ký
kinh doanh, xác định giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm
chính thức chuyển thành công ty cổ phần và các tồn tại về tài
chính cần tiếp tục xử lý.
Việc cổ phần hóa phải trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ
có sự thay đổi về số liệu kế toán. Do đó, nếu các thời điểm nêu
trên thuộc phạm vi niên độ kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước thì
cũng phải kiểm toán các giai đoạn khác nhau trong tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp. Khi đó khi kiểm toán các công ty này sẽ
nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp hơn nhiều khi kiểm
toán các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hay các công ty cổ
phần đang hoạt động ổn định trong thời gian cả niên độ .
Có thể liệt kê một số khó khăn chính như sau:
Về tính tuân thủ pháp luật:
Giai đoạn DNNN cổ phần hóa doanh nghiệp theo Luật DNNN,
còn giai đoạn công ty cổ phần hoạt động theo Luật DN.
Nghị định 199/2004/NĐ-CP và Thông tư 33/2005.TT-BTC về Quy
chế quản lý tài chính công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước
đầu tư vào doanh nghiệp khác chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp
nhà nước cổ phần hóa, không áp dụng cho công ty cổ phần.
Nghị định 206/2004/NĐ-CP về quản lý lao động, tiền lương và lao
động trong công ty nhà nước cũng chỉ áp dụng đối với doanh
nghiệp nhà nước, không áp dụng đối với công ty cổ phần.
Kiểm toán nhiều giai đoạn mà mỗi giai đoạn lại chịu sự điều chỉnh
của nhiều chính sách, chế độ khác nhau là một công việc khó
khăn cho các kiểm toán viên. Đặc biệt là việc phân định rạch ròi
các giai đoạn, ví dụ: thông thường các cơ quan chức năng giao
đơn giá tiền lương trên cơ sở cả niên độ năm tài chính, tuy nhiên
khi thực hiện quyết toán quỹ tiền lương hạch toán vào chi phí thì
phải áp dụng đơn giá tiền lương năm cho số tháng là doanh
nghiệp nhà nước và phải xác định rõ ràng các chỉ tiêu tính lương
như: doanh thu, sản lượng, lợi nhuận…của số tháng là DNNN,
mà đôi khi các chỉ tiêu này doanh nghiệp không có số liệu hay
số liệu không đáng tin cậy, chỉ mang tính thống kê.
Về việc xử lý số liệu do kiểm toán phát hiện chênh lệch:
Trong quá trình kiểm toán, nếu có phát hiện chênh lệch thì việc
xử lý số chênh lệch ở mỗi giai đoạn cũng là vấn đề rất khác nhau.
Cụ thể:
Vấn đề thứ nhất: Việc xử lý số liệu chênh lệch trước thời
điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Theo quy định thì Tổ chức tư vấn định giá chịu trách nhiệm về kết
quả xác định giá trị doanh nghiệp; Căn cứ Hồ sơ xác định giá trị
doanh nghiệp do tổ chức tư vấn định giá xây dựng ( hay do
doanh nghiệp cổ phần hóa tự xây dựng ), Ban chỉ đạo cổ phần
hóa doanh nghiệp có trách nhiệm trình cơ quan có thẩm quyền
quyết định giá trị doanh nghiệp; Kết quả công bố giá trị doanh
nghiệp của cơ quan có thẩm quyền là cơ sở để xác định quy mô
vốn điều lệ, cơ cấu cổ phần phát hành lần đầu và giá khởi điểm
để thực hiện đấu giá cổ phần.
Doanh nghiệp cổ phần hóa đước điều chỉnh giá trị doanh nghiệp
đó công bố trong trường hợp sau đây:
Có những nguyên nhân khách quan ( thiên tai địch họa, chính
sách Nhà nước thay đổi hay do nguyên nhân bất khả kháng
khác ) làm ảnh hưởng đến giá trị những tài sản của doanh
nghiệp.
Sau 12 tháng kể từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp mà
doanh nghiệp chưa thực hiện việc bán cổ phần.
Do đó, nếu có sự chênh lệch giữa số liệu của kiểm toán và số liệu
xác định giá trị doanh nghiệp thì cũng không đủ cơ sở để điều
chỉnh bởi:
Thứ nhất: Kiểm toán Nhà nước chỉ xác nhận và đánh giá về
BCTC của doanh nghiệp, không có chức năng định giá doanh
nghiệp do số liệu kiểm toán cũng chưa đủ cơ sở pháp lý.
Thứ hai: Kiểm toán Nhà nước thông thường chỉ kiểm toán trên
tài liệu, hồ sơ, chứng từ đơn vị cung cấp ( chỉ kiểm toán theo sổ
sách kế toán ), nhưng giá trị doanh nghiệp được xác định trước
khi cổ phần hóa ngoài căn cứ theo giá trị sổ kế toán còn căn cứ
vào tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản của
doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp; Giá thị
trường của tài sản tại thời điểm tổ chức định giá; Giá trị quyền sử
dụng đất được giao, được thuê và giá trị lợi thế kinh doanh của
doanh nghiệp. Do đó số liệu kiểm toán cũng chưa được chính
xác hoàn toàn.
Thông thường kiểm toán viên gặp trường hợp này đều xác nhận
theo giá trị doanh nghiệp đã xác định mà chỉ đánh giá, nhận xét,
kiến nghị ( nếu có ).
Vấn để thứ hai: việc xử lý số liệu chênh lệch sau thời điểm
xác định giá trị doanh nghiệp đến trước thời điểm chính thức
chuyển thành công ty cổ phần.
Theo quy định thì khoản chênh lệch tăng giữa giá trị thực tế vốn
nhà nước tại thời điểm doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ
phần với giá trị trị thực tế phần vốn nhà nước tại thời điểm xác
định giá trị doanh nghiệp được xử lý về Quỹ hỗ trợ sắp xếp
doanh nghiệp. Trường hợp phát sinh chênh lệch giảm thì doanh
nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm
quyền quyết định cổ phần hóa để kết hợp với các cơ quan liên
quan tổ chức kiểm tra, làm rõ nguyên nhân, xác định trách nhiệm
tập thể, cá nhân và xử lý như sau:
Nếu do nguyên nhân khách quan ( do thiên tai dịch họa; do Nhà
nước thay đổi chính sách hay do biến động của thị trường q...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status