Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế - pdf 15

Download miễn phí Đề tài Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế



Các công ty cổ phần ở Việt Nam với khả năng tích luỹ vốn và thu hút các nguồn đầu tư khác nhau đã có thể dần dần đổi mới công nghệ - kỹ thuật, đồng thời tổ chức cơ cấu lao động theo hướng hợp lý hóa đã làm cho năng suất lao động của công ty tăng rõ rệt, sức sản xuất xã hội cũng tăng theo. Điều này chứng tỏ rằng, cùng với sự phát triển của công ty cổ phần, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta đang được cải thiện. Công ty cổ phần phát triển trong nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo ra một khối lượng việc làm đáng kể cho người dân. Thu nhập của người lao động trong các công ty cổ phần cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5 đến 2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần, tăng khoảng 22 – 24%/năm.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ần là nó đã góp phần đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sở hữu cả về tốc độ lẫn qui mô vì bản thân công ty cổ phần đã là sản phẩm của sự xã hội hóa sở hữu, được thể hiên qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Sự lớn lên tự nhiên của tư bản bằng con đường tích tụ và tập trung tư bản đã gặp phải những giới hạn. Chính nhờ sự ra đời của công ty cổ phần mà tư bản được tập trung nhanh chóng và làm xuất hiện những xí nghiệp lớn mà không một tư bản riêng lẻ nào đủ sức tạo nên. C.Mác đã đánh giá rằng nếu như phải chờ cho đến khi tích lũy tư bản làm cho một số tư bản lớn lên đến mức có thể làm được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến nay thế giới vẫn chưa có đường sắt; ngược lại, với các công ty cổ phần, việc tập trung đã được thực hiện trong “nháy mắt”. Công ty cổ phần còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển tư bản đầu tư, tăng tính linh hoạt và cạnh tranh trong nền kinh tế, phân tán rủi ro cho những người đầu tư trong môi trường cạnh tranh quyết liệt.
Các công ty cổ phần với việc xã hội hóa sở hữu, huy động vốn từ mọi tầng lớp xã hội, với việc tách quyền sở hữu với việc quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh, nó cho phép mở rộng qui mô sản xuất nhanh, tạo điều kiện cho xã hội hóa sản xuất, và do đó nó làm cho hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán và Nhà nước trở thành một bộ máy kinh tế hoạt động và thực hiện chức năng quản lý mà lâu nay vẫn nằm trong tay các nhà tư bản cá biệt.
Việc hình thành và phát triển của các công ty cổ phần đã mang hình thái tư bản xã hội đối lập với tư bản tư nhân; còn các xí nghiệp của nó biểu hiện là những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư nhân. C.Mác cho rằng đây là “sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong giới hạn của bản thân cách sản xuất tư bản chủ nghĩa”[3,305] và là “điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng không phải với tư cách sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ” [3,305].
Chương 2:
thực trạng về công ty cổ phần ở việt nam và vai trò của nó đối với nền kinh tế ở nước ta
2.1.tính tất yêu khách quan của việc hình thành công ty cổ
phần ở nước ta
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới đối với nước ta khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần. Vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước được đặt ra từ năm 1991 và cho đến nay đã có rất nhiều công ty cổ phần được thành lập ở mọi thành phần kinh tế. Điều đó cho thấy sự hình thành các công ty cổ phần ở nước ta là một thực tế khách quan, một xu hướng tất yếu, nó không phụ thuôc vào ý chí chủ quan của bất cứ một tổ chức nào.
Thật vậy, công ty cổ phần ra đời là do đòi hỏi của nền kinh tế hàng hóa phát triển. Nó sẽ hình thành và phát triển ở nước ta nếu hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết.
2.1.1.Nước ta cần hình thành công ty cổ phần.
Hiện nay khu vực doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 70% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong trong nền kinh tế, thu hút phần lớn lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề... song chỉ tạo ra trên 40% tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế. Cho đến cuối năm 1997, nước ta có khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước thì chỉ có 50% doanh nghiệp có lãi, trong đó thực sự kinh doanh có lãi và lâu dài chỉ chiếm 30%. Thực tế doanh nghiệp nhà nước nộp ngân sách chiếm 80 – 85% tổng số thu, nhưng nêu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì doanh nghiệp nhà nước chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách nhà nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí và tài sản cố định, đất đai theo giá thị trường thì các doanh nghiệp nhà nước không tạo ra được tích luỹ. Những điêu trên cho phép khẳng định rằng khu vực kinh tế nhà nước kinh doanh kém hiệu quả.
Dẫn đến tình trạng trên, cơ cấu kinh tế và cách quản lý lạc hậu là một nguyên nhân cơ bản. Tình trạng sở hữu chung chung, vô chủ, duy trì cơ chế quản lý hành chính bao cấp là những cản trở lớn của quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, cải cách hệ thống các doanh nghiệp nhà nước theo hướng đa dạng hóa sở hữu, cải tiến quản lý và nâng cao hiệu quả là việc làm cấp bách. Các doanh nghiệp nhà nước cần nâng cao hiệu quả kinh tế, nếu không sẽ không thể vươn lên giữ vai trò chủ đạo, không thể hướng các thành phần kinh tế khác đi theo quĩ đạo xã hội chủ nghĩa, dẫn đến mất ổn định xã hội. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp cải cách các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Vì vậy, việc hình thành các công ty cổ phần từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu.
Hiện nay, xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã diễn ra trên qui mô lớn với nhiều hình thức phong phú ở rất nhiều nước trong cộng đồng thế giới. Chẳng hạn Anh, đầu năm 1988, đã bán 40% tài sản khu vực quốc doanh trị giá hơn 20 tỷ bảng, ở Pháp chưa đầy năm rưỡi đã thực hiện 1/3 chương trình cổ phần hóa thu 7 tỷ Franc; ở Tây Đức, năm 1984 – 1987 đã bán hoàn toàn hay một phần cổ phiếu khống chế của Nhà nước trong hơn 50 công ty với tổng giá trị hơn 5 tỷ Mác[12,37]. Trong bối cảnh quốc tế đó, sự giao lưu, hòa nhập, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là tất yếu khách quan, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: trao đổi thương mại, đầu tư, hợp tác nghiên cứu, viện trợ, cho vay...và dưới nhiều hình thức khác nhau như: liên doanh liên kết, hợp tác, cho thuê, đại lý, đấu thầu ...Trong đó liên kết kinh tế dưới hình thức góp vốn kinh doanh hình thành công ty cổ phần đóng vai trò quan trọng vì đây là hình thức kinh tế có trình độ xã hội hóa sản xuất cao, phù hợp với xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế. Mặt khác việc cổ phần hóa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước giúp khu vực này thực hiện tốt vai trò điều tiết của mình. Như vậy, việc hình thành và phát triển của công ty cổ phần ở nước ta bằng cách đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa là phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và điều kiện thực tế của Việt Nam
Nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên công nhiệp hoá - hiện đại hóa đòi hỏi phải huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định và nguồn vốn bên ngoài là quan trọng. Tích luỹ vốn nội bộ nền kinh tế quốc dân được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất và lao động thặng dư của của người lao động thuộc tất cả các thành phần trong nền kinh tế. Muốn vậy phải ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ để hợp lý hóa sản xuất. Ngoài việc nghiên cứu trong nước, chúng ta cần nắm bắt được các thành tựu khoa học mới của thế giới. Việc này đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về vốn và thời gian. Cổ phần hóa là m
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status