Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê và đẩy mạnh xuất khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam - pdf 15

Download miễn phí Luận văn Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê và đẩy mạnh xuất khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam



Tổng công ty Cà phê Việt Namlà Doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Chính Phủ, có trụ sở tại số 5 - Ông ích Khiêm – Quận Ba Đình - TP Hà Nội. Tổng công ty cà phê Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ tháng 9/1955. Hiện nay, Tổng công ty có 65 đơn vị thành viên, trong đó 61 đơn vị sản xuất kinh doanh và 4 đơn vị sự nghiệp đứng chân trên địa bàn 14 tỉnh, thành phố. Đây là một doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn bao gồm các đơn vị hạch toán phụ thuộc và đơn vị sự nghiệp có quan hệ mật thiết về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, cung ứng vật tư, thiết bị, dịch vụ, chế biến, đào tạo, nghiên cứu. hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hóa, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao.
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

rong 3 năm qua mức giá hạ đã kéo theo sự sụt giảm sản lượng sản xuất và xuất khẩu. Hiệp hội cà phê Việt Nam (VICOFA) đoán tổng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam niên vụ 2002 – 2003 sẽ chỉ còn 540.000 tấn. Trong tháng 1 năm 2003 có tới 60% lượng cà phê tồn kho của 3 tháng 10, 11, 12 năm 2002 vẫn chưa được xuất khẩu. Có khoảng 20% sản lượng cà phê Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ, 60% xuất sang thị trường châu Âu. Các nước Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Bỉ và Thụy Sĩ là những quốc gia nhập khẩu cà phê chính của Việt Nam.
Do giá cà phê giảm thấp nên hầu hết các nhà xuất khẩu cà phê của Việt Nam đều bị thua lỗ. Việc bán cà phê của công ty xuất khẩu hầu hết bán theo cách trừ lùi (stop loss) vì vậy gặp nhiều rủi ro. Mặt khác do chất lượng cà phê nhân xuất khẩu của Việt Nam còn hạn chế, không đồng đều nên giá thường thấp từ 80 – 120 USD/ tấn so với giá quốc tế, một phần cũng do lượng cung tăng nên bị ép giá. Do xuất khẩu giá thấp nên việc thu mua cà phê trong nước cũng thấp gây khó khăn cho nguồn sản xuất. Nhiều doanh nghiệp sản xuất, các nông hộ trồng cà phê cũng bị thua lỗ.
Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ ngành cà phê nên năm 2001 đã yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê thu mua tạm trữ 150.000 tấn trong thời gian 6 tháng (Nhà nước bù lãi xuất vay và bù 70% số lỗ) để hỗ trợ giá mua cho người sản xuất và cùng các nước sản xuất cà phê như Brazil, Indonesia… tạm trữ cà phê nhằm kích giá quốc tế tăng lên. Nhưng tình hình cũng không được khả quan vì một số nước cũng không thực hiện việc tạm trữ theo quy định của ACPC (Hiệp hội các nước sản xuất cà phê).
Thực trạng hiện nay ngành cà phê Việt Nam cũng như cà phê thế giới đang tronng tình trạngkhủng hoảng khá gay gắt.
4. Những vấn đề cơ bản về tổ chức và phát triển của Tổng công ty cà phê Việt Nam:
4.1. Quá trình hình thành và phát triển Tổng công ty cà phê Việt Nam:
Tổng công ty Cà phê Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Việt Nam National coffee corporation (viết tắt là VINA CAFE) được thành lập theo quyết định 251/TTg ngày 29/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ và hoạt động trên cơ sở điều lệ ban hành kèm theo Nghị định số : 44 – CP ngày 15/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ. Tiền thân của Tổng công ty là liên hiệp các Xí nghiệp cà phê Việt Nam thành lập ngày 13- 10 -1982 theo quyết định 174/HĐBT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ).
Tổng công ty Cà phê Việt Namlà Doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Chính Phủ, có trụ sở tại số 5 - Ông ích Khiêm – Quận Ba Đình - TP Hà Nội. Tổng công ty cà phê Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ tháng 9/1955. Hiện nay, Tổng công ty có 65 đơn vị thành viên, trong đó 61 đơn vị sản xuất kinh doanh và 4 đơn vị sự nghiệp đứng chân trên địa bàn 14 tỉnh, thành phố. Đây là một doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn bao gồm các đơn vị hạch toán phụ thuộc và đơn vị sự nghiệp có quan hệ mật thiết về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, cung ứng vật tư, thiết bị, dịch vụ, chế biến, đào tạo, nghiên cứu.... hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hóa, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao.
Trải qua 20 năm xây dựng và trưởng thành, Liên hiệp các xí nghiệp cà phê này là Tổng công ty cà phê Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự phảt triển của ngành cà phê và nền kinh tế đất nước. Hàng chục ngàn lao động đã có công ăn việc làm, hàng vạn ha đất trồng, đồi trọc được tận dụng và khai thác có hiệu quả. Cùng với việc mở rộng diện tích cà phê, VINACAFE đã quan tâm đến việc phát triển cà phê các địa phương nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vvùng căn cứ cách mạng đã đóng góp tích cực vào chương trình xóa đói, giảm cùng kiệt của Đảng và Nhà nước. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất, đời sống và phúc lợi xã hội không ngừng được tăng cường như thủy lợi, giao thông, điện lưới, trường học, cơ sở chế biến .... đã góp nhiều vào quá trình xây dựng kinh tế – xã hội ở Tây Nguyên và sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Bằng Hiệp định hợp tác Quốc tế với các nước Liên xô (cũ), Cộng hòa nhân dân Bungải, Cộng hòa dân chủ Đức, Cộng hòa XHCN Tiệp Khắc, Liên hiệp các xí nghiệp cà phê Việt Nam (nay là Tổng công ty cà phê Việt Nam ) từ năm 1982 – 1988 đã phát triển nhiều vùng cà phê tập trung với diện tích 20. 000 ha trên địa bàn 2 tỉnh ĐăkLăk và GiaLai –KonTum.
Với sự đầu tư thỏa đáng ngay từ trong thời kỳ xây dựng cơ bản cùng với iệc áp dụng cơ chế quản lý tiên tiến, luôn luôn đổi mới và hoàn thiẹn cách khoán nên năng suất, chất lượng, hiệu quả không ngừng được nâng lên. Năm 1990, năng suất bình quân chỉ đạt xấp xỉ 1,0 tấn nhân/ ha, đến nay năng suất bình quân của Tổng công ty đã đạt 2,3 – 2,5 tấn /ha, có nông trường năng suất bình quân lên lên 3,0 – 3,5 tấn/ha. Việt Nam đã trở thành một trong những nước có năng suất cà phê cao nhất thế giới. Ngày nay không chỉ có các nông trường mà hộ nông dân trồng cà phê đều biết ứng dụng các biện phấp kỹ thuật tiên tiến để thâm canh, tăng năng suất.
Từ chỗ chỉ làm nhiệm vụ sản xuất và nhập khẩu thông qua vật tư thiết bị, Liên hiệp các xí nghiệp cà phê Việt Nam (nay là Tổng công ty Cà phê Việt Nam ) đã được Nhà nước giao thêm nhiệm vụ xuất khẩu. Năm 1990, Liên hiệp xuất được 19.558 tấn cà phê, kim ngạch gần 17 triệu USD và nhập khẩu 8,981 triệu USD, thì năm 2002 xuất khẩu 226.303 tấn. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên 92 triệu USD/ 2002 ( năm 200 gần120 triệu USD).
VINACAFE đã trở thành cái tên quen thuộc với nhiều khách hàng quốc tế thuộc 40 quốc tịch khác nhau. Điều này lại thêm một lần đánh giá sự trưởng thành của Tổng công ty cà phê Việt Nam, sự lớn mạnh ấy từ khâu sản xuất làm ra sản phẩm đến khâu chế biến, tiêu thụ sản phẩm, một dây chuyền khép kín trong Tổng công ty.
Ngoài phát triển cà phê và xuất khẩu cà phê, Tổng công ty kết hợp kinh doanh đa dạng các ngành nghề khai thác các tiềm năng đất đai lao động. Hàng năng sản xuất ra trên 20.000 tấn lúa, 7.000 – 10.000 tấn đường, 1.100 tấn cà phê hòa tan, 55 – 66 tấn bánh sôcôla , 15 triệu viên gạch ..... đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc,gia cầm và hồ ao thả cá.
Tổng công ty Cà phê Việt Nam được Nhà nước giao chủ trì việc tổ chức thực hiện phát triển 40.000 ha cà phê chè ở các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc bằng vốn vay AFD của Pháp. Đến nay đã có 9 tỉnh được duyệt dự án và đã triển khai thực hiện được 1/4 chương trình.
Có thể nói, cùgn với các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp trong Tổng công ty Cà phê Việt Nam đóng vai trò nòng cốt trong việc tạo lập, xây dựng ngành kinh tế-kỹ thuật sản xuất cà phê, trong việc hình thành các vùng kinh tế mới, do đó gián tiếp giúp đỡ, hỗ trợ tư nhân. Vai trò đó được thể hiện trong khai hoang, xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ sản xuất... Tuy nhiên, so với các thành phần kinh tế khác thì có những hạn chế, biểu hiện như quy hoạch trồng mới trên cả những vùng đất xấu, th...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status