Cây lúa với nền văn minh lúa nước của Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á - pdf 15

Download miễn phí Đề tài Cây lúa với nền văn minh lúa nước của Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á



MỤC LỤC
Phần mở đầu 1
Chương 1. Điều kiện để hình thành nghề lúa ở Đông Nam Á 2
1. Điều kiện khí hậu và các vụ lúa ở Đông Nam Á. 3
1.1. Điều kiện khí hậu. 3
1.2. Các vụ lúa ở Đông Nam Á. 5
2. Địa bàn trồng lúa và loại lúa ở Đông Nam Á. 7
2.1. Địa bàn trồng lúa. 7
2.2. Các loại lúa chính 8
2.2.1. Lúa cạn. 8
2.2.2. Lúa nước. 9
3. Vai trò văn hoá của cây lúa. 11
Chương 2. Nghề trồng lúa của Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á. 13
Chương 3. Nét văn hoá truyền thống từ nghề làm lúa ở Đông Nam Á. 19
1. Tín ngưỡng. 19
2. Lễ hội. 22
3. Một số tín ngưỡng và lễ hội tiêu biểu từ cư dân trồng lúa ở Đông Nam Á. 23
3.1. Tín ngưỡng hồn lúa 23
3.2. Tín ngưỡng thờ nước. 27
3.3. Hội xuống đồng ở Việt Nam 30
Phần kết luận 33
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

m mặn, đất phèn khá rộng. Châu thổ sông Hồng có hệ thống đê điều khá dầy đặc để chống lụt nên có những loại đất ngoài đê được bồi hàng năm và có hàm lượng chất dinh dưỡng tương đối cao. Các đồng bằng miền trung Việt Nam có nhiều thành phần phù sa biển lại có những con sông ngắn tương đối ít phù sa từ dãy Trường Sơn chảy xuống nên nói chung ít màu mỡ hơn.
Ở Inđônêxia, những đồng bằng ven biển ở Bắc Java cũng được bồi đắp bằng những con sông chảy từ những dãy núi trung tâm xuống như các sông Kali Sola, Kali Bran.
Ở Philippin, vùng trồng lúa nước quan trọng nhất là đồng bằng trung tâm đảo Luzon do phù sa sông Pampaga bồi đắp nên, rồi đến châu thổ nhỏ hơn của sông Cagaygan ở phía Đông Bắc đảo này.
Ở Mailaixia, lúa nước cũng được trồng chủ yếu ở một số vùng đồng bằng ven biển, nhất là vùng Tây Malaixia. Đáng chú ý là đồng bằng trồng lúa của bang Keda ở Tây Bắc bán đảo Tây Malaixia, được coi là “vựa lúa” của Malaixia.
3. Vai trò văn hoá của cây lúa.
Cây lúa có ba vai trò quan trọng trong việc hình thành nét văn hoá cho cư dân bản địa.
Cây lúa nước thúc đẩy quá trình đi tìm và khai thác các đồng bằng châu thổ. Người Miến đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông Irrawady xuống Trung Myanma rồi Hạ Myanma. Người Thái đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông Chao Phraya xuống Trung Thái Lan rồi Nam Thái Lan. Người Việt đi từ trung du xuống đồng bằng châu thổ sông Hồng, rồi đi tiếp qua miền Trung đồng bằng châu thổ sông Mê Kông. Các dòng sông ở Đông Nam Á giữ vai trò chủ yếu trong việc hình thành nên những loại đất thích hợp cho cây lúa nước, đó là phù sa chảy qua những vùng núi tương đối trẻ ở phía Bắc, có những sườn dốc dễ bị xói mòn với nhiều loại đá kết tầng, những con sông lơn đã đưa về các châu thổ những loại phù sa màu mỡ, ít có đối với những con sông khác trên thế giới.
Cây lúa nước thúc đẩy quá trình hình thành các tổ chức xã hội, làng và các quốc gia nông nghiệp. Ở Đông Nam Á có hai loại quốc gia nảy sinh trên sự phát triển của nông nghiệp lúa nước. Hai là những quốc gia nảy sinh trên nhu cầu của giao thương quốc tế. Theo Yumio Sakurai, do sự phát triển của nông nghiệp lúa nước, cho nên ở các thung lũng và ở các châu thổ đã hình thành những nơi tụ cư lớn mà ở Đông Nam Á người ta hay gọi là mường, một tổ chức xã hội khá chặt chẽ.
Sakurai gọi mường là tổ chức tiền quốc gia, Đông Nam Á có hai loại quốc gia: quốc gia nội địa, với nền kinh tế dựa trên việc trồng lúa tưới nước, cùng với những đặc điểm xã hội là: tổ chức xã hội phân chia đẳng cáp tập trung ở các kinh thành đô thị, một tầng lớp nông dân đông đảo ở thôn quê lo sản xuất lương thực, một bộ máy quan liêu và một đội ngũ tăng lữ chủ yếu sống ở thành thị phụ thuộc vào nhà vua. Lãnh địa bến cảng ở cảng biểnm cửa sông thường có, một ông vua, một tầng lớp buôn bán đông đảo, một lớp người phục dịch. Những người làm nghề nông định cư chiếm tuyệt đại đa số cư dân Đông Nam Á, lấy việc trồng lúa nước làm cơ sở sinh sống, họ vừa làm ruộng vừa làm vườn. Tổ chức xã hội dựa trên cơ sở gia đình, làng mạc và sau này là nhà nước.
Cây lúa nước thúc đẩy hình thành nên văn hoá nông nghiệp. Nhìn từ mối quan hệ với đất đai, nền văn hoá nông nghiệp có những đặc điểm sau: bám đất, tự túc, hướng nội, đóng cửa.
Chương 2. Nghề trồng lúa của Việt Nam trong bối cảnh văn hoá
Đông Nam Á.
Tài liệu nghiên cứu về nhiều mặt cũng như những phát hiện khảo cổ học gần đây đã dẫn đến kêt luận là nghề trồng lúa Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời, cây lúa trồng là một cây “bản địa”, nông dân Việt Nam đã là những người trồng lúa giỏi từ nghìn xưa, và trong những hoàn cảnh sản xuất khác nhau đã tích luỹ được cả một kho tàng kinh nghiệm trồng lúa phong phú và độc đáo.
Những tài liệu đã được giới thiệu ở các chương trên đã cho thấy là nghề trồng lúa Việt Nam đã phản ánh những sắc thái chung của vùng trồng lúa Đông Nam Á, đồng thời cũng có những nét đặc thù, nảy sinh sản xuất và lao động cần cù của dân tộc Việt Nam, tất cả đã làm nổi bật một số đặc điểm chủ yếu của cấy lúa Việt Nam.
Đất nước Việt Nam ngoài các vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc và dãu Trường Sơn hùng vĩ, còn gồm hai châu thổ rộng lớn: châu thổ sông Hồng ở phía Bắc, châu thổ sông Cửu Long ở phía Nam và một loạt những châu thổ nhỏ hẹp hơn của các dòng sông tương đối ngắn hơn, và chạy dọc theo ven biển miền Trung. Cũng như các châu thổ ở các nước khác ở Đông Nam Á, các châu thổ ở Việt Nam đều được dành chủ yếu để gieo trồng lúa. Lịch sử khai thác các loại châu thổ này đã có những thời gian dài ngắn khác nhau, theo lịch sử phát triển cảu dân tộc Việt Nam. Được khai thác sớm nhất là châu thổ sông Hồng, đã được gieo trồng lúa nước từ trước đây 4000 năm, và có thể còn xa hơn thế nữa. Châu thổ này với nền văn hoá sông Hồng, lấy cây lúa nước la loại cây trồng chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp, đã được sức lao động cần cù và bền bỉ của nhiều thế hệ nông dân Việt Nam qua hàng chục thế kỷ làm cho biến đổi sâu sắc: hệ thống đê điều dày đặc, dọc theo hai bên bờ của những sông ngòi lớn nhỏ, những sông tự nhiên, cũng như con sông đào do bàn tay người xây dựng đã làm cho phần lớn ruộng đất ở châu thổ hầu như thoát khỏi ảnh hưởng thường xuyên của lũ hàng năm của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, và tiến triển theo những quy luật đặc thù của đất lúa nước, được sử dụng để trồng lúa nước trong nhiều tháng trong năm, ngay cả trong mùa đông lạnh và tương đối khô, do đã bắt đầu có nước dự trữ ở những vùng sâu, và sau này với sự phát triển của thuỷ lợi cũng đã có nước ở những cánh đồng tương đối ít sâu hơn. Được khai thác sớm nhất, châu thổ sông Hồng cũng cho phép dân số tập trung sớm nhất, và mật độ dân số ngày càng tăng đã tạo điều kiện và thúc đẩy việc trồng lúa, sớm đi vào thâm canh, chủ yếu bằng cách dùng lao động thủ công ngày càng nhiều trên một đơn vị diện tích, với những cách làm mạ, làm đất, cấy lúa, chăm sóc khá tinh vi. Biện pháp bón phân tập trung dúi vào từng gốc lúa, cho đến những năm sau cách mạng tháng Tám đã khá quen thuộc với nông dân ở một số vùng của Hà Đông. Người ta đã dùng những hạt đậu tương lép rồi đến cả đậu tương chắc để sau khi cấy lúa đã bén rễ xong, thì đem bón bằng cách dúi vào gốc lúa từ 1 đến 2 hạt. Khi bắt đầu dùng phân hoá học thì nông dân ở đây trước tiên dùng những mảnh giấy con gói một lượng phân đạm bằng hạt ngô, và sau này thì trộn phân đạm với đất nhão để vo viên dúi vào gốc lúa. Hay trong việc làm đất đối với vụ lúa chiêm, nông dân ở Thái Binh và Nam Nam Định cũ đã dùng sức người để xếp những hòn đất đã cày trong ruộng thành những bức tường thấp dọc theo bờ dài của thửa ruộng để cho gió thổi bốn bề, nắng hanh làm đất mau khô: cách xếp ải này đã có hiệu quả tăng năng suất lúa chiếm khá rõ. Một vài thí dụ trên, trong rất nhiều thí dụ khác ...

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status