Immunoglobulin trong sữa bò - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Immunoglobulin trong sữa bò



Quá trình thanh trùng nhằm làm giảm số VSV trong sữa xuống dưới mức thấp
nhất, đồng thời vô hoạt các enzyme, đặc biệt là nhóm enzyme bền nhiệt lipase.
Do cần giữ lại hoạt tính của các yếu tố miễn dịch , đặc biệt là Ig , cũng như các
yếu tố sinh trưởng khác nên nhiệt độ thanh trùng chọn là 72oC trong 15 giây .
Để tổng số vi khuẩn trong sữa không vượt quá 3000-5000 tế bào trong 1l , sử dụng
kết hợp với phương pháp vi lọc . Với kích thước lỗ lọc là 0.2 µm .



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ệc hoạt hóa
bổ thể. Nó còn được gọi là các "kháng thể tự nhiên" vì lưu hành trong máu ngay cả
khi không có bằng chứng về sự tiếp xúc với kháng nguyên.
Ở các tế bào dòng mầm, segment gene mã hóa vùng μ hằng định của chuỗi nặng
được giải mã trước các segment khác. Do đó, IgM là immunoglobulin đầu tiên
được sản xuất bởi tế bào B trưởng thành.
5.4-IgE
IgE là loại immunoglobulin monomer trong đó carbonhydrate chiếm tỷ lệ khá lớn.
Khối lượng phân tử của IgE là 190 kDa. IgE có trên màng bào tương của bạch cầu
ái kiềm và tế bào mast ở mô liên kết. IgE giữ một vai trò trong phản ứng quá mẫn
cấp cũng như trong cơ chế miễn dịch chống ký sinh trùng. Kháng thể loại IgE
cũng có trong các dịch tiết, không hoạt hóa bổ thể và là loại immunoglobulin dễ bị
hủy bởi nhiệt.
5.5-IgD
IgD là loại immunoglobulin monomer chiếm chưa đầy 1% trên màng tế bào
lympho B. Chức năng của IgD chưa được hiểu biết đầy đủ, nó thường biểu hiện
đồng thời với IgM và được xem như một chỉ dấu (marker) của tế bào B trưởng
thành nhưng chưa tiếp xúc kháng nguyên. Có lẽ nó tham gia vào cơ chế biệt hóa
của tế bào B thành tương bào và tế bào B ghi nhớ.
6-Vai trò của kháng thể
IMMUNOGLOBULIN TRONG SỮA BÒ GVHD:PGS.TS LÊ VĂN VIỆT MẪN
- 7 -
Trong một đáp ứng miễn dịch, kháng thể có 3 chức năng chính: gắn với kháng
nguyên, kích hoạt hệ thống bổ thể và huy động các tế bào miễn dịch.
6.1-Liên kết với kháng nguyên
Hình 3: Các độc tố của vi khuẩn bên cạnh một tế bào cơ thể.
Các immunoglobulin có khả năng nhận diện và gắn một cách đặc hiệu với 1 kháng
nguyên tương ứng nhờ các domain biến thiên. Một thí dụ để miêu tả lợi ích của
kháng thể là trong phản ứng chống độc tố vi khuẩn. Kháng thể gắn với và qua đó
trung hòa độc tố, ngăn ngừa sự bám dính của các độc tố trên lên các thụ thể tế bào.
Như vậy, các tế bào cơ thể tránh được các rối loạn do các độc tố đó gây ra
(hình3,hình 4)
Tương tự như vậy, nhiều virus và vi khuẩn chỉ gây bệnh khi bám được vào các tế
bào cơ thể. Vi khuẩn sử dụng các phân tử bám dính là adhesine, còn virus sở hữu
các protein cố định trên lớp vỏ ngoài. Các kháng thể kháng-adhesine và kháng-
proteine capside virus sẽ ngăn chặn các vi sinh vật này gắn vào các tế bào đích của
chúng.
6.2-Hoạt hóa bổ thể
Hình 4: Các độc tố trên bị trung hòa bởi kháng thể.
IMMUNOGLOBULIN TRONG SỮA BÒ GVHD:PGS.TS LÊ VĂN VIỆT MẪN
- 8 -
Một trong những cơ chế bảo vệ cơ thể của kháng thể là việc hoạt hóa dòng
thác bổ thể. Bổ thể là tập hợp các protein huyết tương khi được hoạt hóa sẽ tiêu
diệt các vi khuẩn xâm hại bằng cách (1) đục các lỗ thủng trên vi khuẩn, (2) tạo
điều kiện cho hiện tượng thực bào, (3) thanh lọc các phức hợp miễn dịch và (4)
phóng thích các phân tử hóa hướng động.
6.3-Hoạt hóa các tế bào miễn dịch
Sau khi gắn vào kháng nguyên ở đầu biến thiên (Fab), kháng thể có thể liên
kết với các tế bào miễn dịch ở đầu hằng định (Fc). Những tương tác này có tầm
quan trọng đặc biệt trong đáp ứng miễn dịch. Như vậy, các kháng thể gắn với một
vi khuẩn có thể liên kết với một đại thực bào và khởi động hiện tượng thực bào.
Các tế bào lympho NK (Natural Killer) có thể thực hiện chức năng độc tế bào và
ly giải các vi khuẩn bị opsonine hóa bởi các kháng thể.
7-Kháng thể đơn dòng và đa dòng
Hình 5: Kháng thể đơn dòng, liên kết với một epitope đặc hiệu.
Hình 6: Các kháng thể đa dòng, mỗi kháng thể liên kết với một epitope khác nhau.
IMMUNOGLOBULIN TRONG SỮA BÒ GVHD:PGS.TS LÊ VĂN VIỆT MẪN
- 9 -
Một tác nhân gây bệnh (vi khuẩn, virus, v.v.) được hệ miễn dịch nhận diện như là
các kháng nguyên. Thông thường, một kháng nguyên có thể gồm nhiều epitope
khác nhau.
7.1-Kháng thể đơn dòng
Các kháng thể đơn dòng chỉ nhận biết một epitope trên một kháng nguyên cho sẵn
(hình 6). Theo định nghĩa, tất cả các kháng thể đơn dòng cùng một dòng thì giống
hệt nhau và được sản xuất bởi cùng một dòng tương bào.
Kháng thể đơn dòng được sử dụng rộng rãi trong sinh học và y học, chúng vừa là
phương tiện chẩn đoán, vừa là công cụ điều trị. Thí dụ, chúng được ứng dụng
trong một phương pháp phát hiện có thai được sử dụng phổ biến hiện nay.
Trước đây, việc sản xuất kháng thể đơn dòng in vitro rất khó khăn do đời sống
ngắn ngủi của các tương bào. Kháng thể chỉ thu được in vivo bằng cách tiêm một
kháng nguyên cụ thể vào một động vật rồi chiết lấy kháng thể trong máu. Phương
pháp này rất tốn kém nhưng chỉ thu được lượng kháng thể rất ít, không thuần nhất
và bị ô nhiễm.
Một tiến bộ to lớn đã đạt được cuối những năm 1970 bởi Cesar Milstein và
Georges Köhler với kỹ thuật hybridoma (tế bào lai giữa 1 lympho B có khả năng
sản xuất kháng thể với 1 tế bào ung thư có đời sống khá dài).
7.2-Kháng thể đa dòng
Các kháng thể đa dòng là một tập hợp các kháng thể đặc hiệu với các epitope khác
nhau trên một kháng nguyên cho trước (xem hình 7). Trong đáp ứng miễn dịch, cơ
thể tổng hợp nhiều kháng thể tương ứng với các epitope của cùng một kháng
nguyên: đáp ứng như vậy gọi là đa dòng.
II- IMMUNOGLOBULIN TRONG SỮA BÒ
Immunoglobulin trong sữa bò gồm IgM, IgG và IgA. Lớp IgG được chia thành 2
phân lớp IgG1 và IgG2.
1-IgM
IgM chiếm khoảng ít hơn 10% trong số immunoglobulin trong sữa non. Nó có các
đặc tính hóa lý và sinh học tương tự như IgM của những loài khác. Protein được
tách ra trong peak đầu tiên từ việc phân tách bằng DEAE-sephadex hay DEAE-
cellulose gradient liên tục khi chất kết tủa chế pha chế (NH4)2SO4 cho sửa hay
sữa non được dùng như nguyên liệu khởi đầu. IgM được tách ra ở nồng độ muối
IMMUNOGLOBULIN TRONG SỮA BÒ GVHD:PGS.TS LÊ VĂN VIỆT MẪN
- 10 -
0.1M, pH là 8.2 khi phân tách bằng DEAE-cellulose. IgM được tách ra từ IgG bởi
sự siêu ly tâm gradient nồng độ sucrose, và từ IgA và IgG bởi phương pháp điện
di gel acrylamide. IgG được phân tách bởi các phương pháp sa lắng có hệ số sa
lắng là 19S. Khi phân tích bằng điện di, dùng acrylamide 7.5% ở pH 4.3, IgM
không thể vào gel phân tách nhưng hình thành một dải dày đặc ở bề mặt gel. IgM
chứa 12.3% carbohydrate. IgM dễ dàng bị khử và phá hủy hoạt tính kháng thể của
nó bởi 2-mercaptoethanol. Sự đặc biệt về kháng thể của IgM bò được chứng minh
bằng sự truyền miễn dịch là đoạn Fc cái không chia sẻ các yếu tố quyết định kháng
thể với IgG bò. Mặc dù tương tự với IgM của các loài khác, IgM bò không đồng
nhất về mặt điện di. Khi so sánh về sự điện di với mười loài phổ biến thì chuỗi µ
của bò gần giống nhất với IgM của cừu.
Khi phân tích kháng thể bổ thể đối với Brucella thì sự phản ứng miễn dịch đầu
tiên của bò cái được tìm thấy hầu như chỉ có lớp IgM
2-IgG
Immunoglobulin được nghiên cứu bao quát nhất và nhiều nhất là IgG. Ig G chiếm
khoảng 85-90% trong immunoglobulin whey. Toàn bộ tính chất hóa lý của IgG bò
tương tự như IgG của những loài khác, mặc dù một số đặc tính sinh học là duy
nhất. Tính tương đồng của IgG bò với IgG của những loài khác thì được tìm thấy
rằng ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status