Đề tài Một số vấn đề về chất lượng tín dụng - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Một số vấn đề về chất lượng tín dụng



Mục lục
Lời nói đầu
I. Những vấn đề chung về hoạt động tín dụng.
1. Khái niệm
2. Lịch sử hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng
3. Phân loại và đặc điểm các loại hình tín dụng
II. Chất lượng tín dụng.
1. Khái niệm
2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
Kết luận
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn.Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hay quí, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về cách vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong một năm hay vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để Ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả Ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến Ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ đúng đối tượng đều là đối tượng được Ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hay doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với Ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được qui định rõ ràng.
3.2.2.5. Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng theo đó Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hay hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ.
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía Ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho Ngân hàng, hay khách hàng trả trực tiếp cho Ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của Ngân hàng.
3.2.2.6. Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của Ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hay các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hay không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp lại một phần chi phí của trung gian, Ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian tài chính.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mụch đích.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa Ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay.
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của Ngân hàng. Tuy nhiên nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu Ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hay giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hay với giá đắt cho người vay vốn.
3.2.3. Cho thuê tài sản
Cho thuê của Ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho Ngân hàng phải thu gần đủ hay đủ giá trị của cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
Cho thuê giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ Ngân hàng phải xuất tiền với kì vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng phải trả cả gốc và lãi dưới hình thức tìn thuê hàng kì. Ngân hàng cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, cho thuê có nhiều đặc điểm khác biệt so với cho vay như tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của Ngân hàng, Ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng, đồng thời Ngân hàng cũng phải có trách nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách hàng và phải bảo đảm về chất lượng của tài sản đó. Cho thuê không có tài sản đảm bảo, nhiều tài sản thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao… nên cho thuê rủi ro rất cao đối với Ngân hàng. Ngân hàng có thể lập phòng cho thuê hay công ty cho thuê để thực hiện và quản lý hoạt động cho thuê.
3.2.4. Bảo lãnh hay tái bảo lãnh
Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết.
Bảo lãnh thường có ba bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh; khách hàng của Ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hay thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy, bảo lãnh được coi là tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết, Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi Ngân hàng phân tích khách hàng như khi cho vay.
Bảo lãnh của Ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status