Một số giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Một số giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay



Đối với nền kinh tế quốc dân, mục tiêu chủ yếu là phát triển ngày một hoàn thiện thị trường sức lao động. Theo Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một số chỉ tiêu định hướng phát triển thị trường sức lao động là: Chuyển đổi cơ cấu lao động theo ngành đến năm 2010 công nghiệp, xây dựng chiếm 30%, nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 42% dịch vụ chiếm 28%, và đến năm 2020 các tỉ lệ tương ứng sẽ là 28%, 42%, 30%; về phân bố nguồn lao động giữa thành thị và nông thôn đến năm 2020 chúng ta phấn đấu tỉ lệ dân số sống ở thành thị chiếm 33%, ở nông thôn chiếm 67%. Về phương hướng tạo việc làm trong toàn xã hội: “ Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch hoá và các chương trình kinh tế – xã hội.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ng thôn đã phục hồi và chấn hưng các làng nghề truyền thống, phát triển đa dạng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thủ công mỹ nghệ truyền thống và một số ngành mới như chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, may mặc… Thay đổi kết cấu các ngành sản xuất trong nông thôn theo hướng “ly nông bất ly hương”.
- Trông khu vực nông thôn các hoạt động dịch vụ cũng được mở mang, bao gồm cả dịch vụ phục vụ sản xuất, dịch vụ công cộng và đời sống
* Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vẫn còn tồn tại những bất cập sau:
Cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung và cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng còn chuyển biến rất chậm. Hiện nay có khoảng 80% số hộ nông thôn sống chủ yếu bằng nghề nông. Trong cơ cấu GDP nông thôn, tỷ trọng nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh tự cấp tự túc, trình độ sản xuất hàng hoá vẫn còn thấp, tính chất quảng canh còn khá phổ biến và hiệu quả sản xuất thấp. Sản xuất hàng hoá còn kém phát triển, nhiều vùng, nhiều địa phương, trồng trọt chăn nuôi theo hướng tự cấp tự túc là chính.
Trong sản xuất nông nghiệp, trồng trọt thuần nông vẫn còn là phổ biến. Trong trồng trọt, lương thực vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, còn cây ăn quả, cây công nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ. Thuỷ sản có phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Lâm nghiệp còn kém phát triển. Nhìn chung cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh, tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá nhỏ.
Công nghiệp nông thôn mới bước đầu phát triển còn rất nhiều yếu kém. Tình trạng phổ biến ở nông thôn là thủ công, phân tán và công nghệ lạc hậu và có nguy cơ huỷ hoại môi trường sinh thái. Tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn quá thấp, mới chỉ đạt 30% sản lượng mía, gần 60% chè, 5% rau quả, 1% thịt hơi… Nhìn chung ngành công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch chưa theo kịp tốc độ sản xuất nguyên liệu và có khoảng cách xa so với yêu cầu về nâng cao chất lượng, hiệu quả nông sản.
Các ngành nông – lâm – ngư nghiệp chưa gắn bó với nhau trong một cơ cấu kinh tế thống nhất. Tình trạng phổ biến trong các mô hình công nông nghiệp, mô hình nông nghiệp – công nghiệp chế biến là phát triển rời rạc chưa tạo thành tổng thể chặt chẽ, thậm chí còn xảy ra tình trạng gây trở ngại mâu thuẫn cho nhau. Tổ chức tiêu thụ nông sản chưa đáp ứng kịp tốc độ phát triển sản xuất hàng hoá…
Như vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chưa gắn chặt với cơ cấu kinh tế nông thôn, chưa hướng tới công nghiệp hoá, cơ sở hạ tầng còn nhiều điểm chưa phù hợp và đồng bộ gây trở ngại cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
2.2. Thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta thời gian qua
2.2.1.Những thành tựu của thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn.
Để phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, thị trường sức lao dộng nông nghiệp nông thôn đã bước đầu hình thành và thu được những kết quả đáng khích lệ. Trước đây, nền nông nghiệp nước chủ yếu là thuần nông, ngày nay trình độ của người lao động nông nghiệp, nông thôn đã phát triển có thể đáp được nhiều ngành nghề khác của thị trường. Hoạt động của thị trường này bắt đầu trở nên sôi động.Mặc dầu tỷ lệ còn thấp song chủ kinh tế hộ gia đình hay chủ các công việc đã bước đầu thuê mướn lao động thường xuyên. Xét về mặt số lượng, nguồn cung ứng lao động ở nông thôn nước ta rất dồi dào. Lao động nông thôn chiếm hơn 3/4 lao động của cả nước. Hiện nay có khoảng 30 triệu lao động và hàng năm có thêm gần 1 triệu lao động bổ sung. Số nhân khẩu từ 15 tuổi trở lên chiếm 70% năm 2000.Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động là 69,1% chiếm tỷ lệ cao so với tổng lực lượng lao động trong cả nước. Lao động nông thôn hầu hết là những người rất cần cù chịu khó và do mức sống còn cùng kiệt nên họ khát khao được làm việc thậm chí chỉ với mức lương rất thấp. Đây là một nguồn lực rất đáng quý cho quá trình chuyển dịch nếu chúng ta biết tận dụng tốt.
Xét về mặt chất lượng. Trong những năm vừa qua, tuy chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn còn yếu kém nhưng đã được nâng cao từng bước. Năm 1997, tỷ lệ chưa biết chữ ở nông thôn là 5,94%, tốt nghiệp trung học cơ sở là 33,1% và tốt nghiệp trung học phổ thông là 9,47%. Năm 2000 tỷ lệ tương ứng là 4,79%, 34,59% và 11,18%. Tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn đang ngày càng tăng. Tỷ lệ này năm 2002 là 75,29% tăng 0,99% so với năm 2001. Số liệu thống kê hàng năm cho thấy, tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm thường xuyên đã qua đào tạo từ công nhân kĩ thuật trở lên hàng năm đều tăng (mặc dầu chậm). Một điều ai cũng thừa nhận rằng sản xuất nông nghiệp tạo ra hầu hết công ăn việc và tăng thu nhập cho phần lớn nhân dân. Theo tổng cục thống kê, từ năm 1990 – 1997 mặc dù trong lĩnh vực công nghiệp GDP tăng 12-14%/năm nhưng chỉ tăng thêm được 200 nghìn chỗ làm. Trong khi đó, với mức tăng trưởng bình quân 4-5%/năm, lĩnh vực nông nghiệp tăng thêm tới 2,9 triệu chỗ làm cho nhân dân. Thu nhập danh nghĩa của người dân nông thôn tăng 12% một năm trong thời kì 1992/1993 đến 1997/1998. Giá trị ngày công ở nông thôn tuy còn thấp hơn thành thị song đang từng bước nâng cao.
Lao động nông nghiệp nông thôn bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ: tăng tỷ trọng lao động ở thành thị và giảm tỷ trọng lao động ở nông thôn, tỷ trọng lao động sản xuất trong các ngành công nghiệp, dịch vụ sản xuất phi nông nghiệp tăng trong tổng số lao động ở nông nghiệp nông thôn, lao động nông nghiệp nông thôn chuyển dịch và phát triển về trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ văn hoá,...Mặc dù vậy, lao động nông nghiệp nông thôn còn tồn tại nhiều bất cập.
2.2.2. Những tồn tại của thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn
Mặc dù đã hình thành song thị trường sức lao động nông nghiệp nông thôn vẫn còn manh mún, chắp vá, và không ổn định. Đó là nơi hầu hết người dân vẫn giữ nguyên công việc và nơi sinh sống suốt đời và tập quán giữ nguyên ngành nghề như vậy không thay đổi nhiều trong thời kì đổi mới. Cơ cấu lao động ở nông thôn không hợp lí.
Sự phân công lao động còn ở trình độ rất thấp, tỷ lệ thuần nông còn rất nặng: ở ĐBSCL là hơn 70%, ở Đông Nam Bộ trên 50%, các nơi khác và trung du, miền núi từ 80 đến 90%. Người nông dân vừa sản xuất lương thực, vừa phải sản xuất các thứ khác, tức là “nhỏ mà đủ”. Không những thế, họ còn phải làm đủ các việc từ trồng trọt, đến thu hoạch và cả tiêu thụ… Sau khi nông hộ nhận khoán ra đời và hợp tác xã được tổ chức theo kiểu mới xuất hiện, tình hình ấy tuy có cải thiện, nhưng không nhiều.
Số lượng lao động nông thôn khá lớn, chiếm 70% lao động và 80% nhân khẩu xã hội, nhưng sản xuất và tiêu dùng dựa chủ yếu vào nông nghiệp với giá trị thu nhập thấp. Nếu tính GDP bình quân trê...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status