Sự can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Sự can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí



MỤC LỤC
ĐỊNH HƯỚNG KHAI THÁC ĐỀ TÀI - 1 -
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ BÁO CHÍ TBCN - 5 -
1. Đôi nét về CNTB - 5 -
2. Các thời kì truyền thông chính trị - 6 -
2.1. Thời kỳ ‘0’ - 6 -
2.2. Thời kỳ 1 - 7 -
2.3. Thời kỳ 2 - 7 -
2.4. Thời kỳ 3 (đã, đang và vẫn còn tiếp diễn) - 8 -
3. Báo chí ở xã hội TBCN qua một số giai đoạn tiêu biểu - 10 -
3.1. Thế kỉ XVII và XVIII - 12 -
3.1.1. Báo chí Anh: đấu tranh giành quyền lực (1621 – 1791) - 13 -
3.1.2. Báo chí Đức bị kiểm duyệt đè nặng (1610 – 1792) - 13 -
3.1.3. Báo chí Pháp thời kì Cách Mạng và Đế Chế (1789 – 1815) - 15 -
3.2. Từ đầu XIX đến 1871 - 15 -
3.2.1. Báo chí Pháp từ 1814 đến 1870 - 16 -
3.2.2. Báo chí Anh từ 1791 đến 1870 - 16 -
3.2.3. Báo chí Đức từ 1792 đến 1871 - 17 -
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN SỰ CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI VỚI BÁO CHÍ - 18 -
1. Báo chí là công cụ trong lĩnh vực chính trị - 18 -
1. Chuẩn bị ra sao? - 26 -
2.Bám trụ để săn tin và bịa đặt! - 26 -
3. Ai là người nắm quyền chế biến thông tin về Iraq - 28 -
2. Báo chí là công cụ quản lý xã hội - 32 -
3. Báo chí là công cụ tăng doanh thu cho nhà nước TBCN - 34 -
CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI VỚI BÁO CHÍ
I. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP GIÁN TIẾP TỚI BÁO CHÍ - 37 -
1. Nhà nước TBCN xây dựng cơ quan báo chí - 37 -
2. Sự liên minh, tập trung hóa trong hoạt động truyền thông - 39 -
3. Can thiệp thông qua đạo đức báo chí - 45 -
2.1. Tự kiểm duyệt và kiểm duyệt chuyên nghiệp - 51 -
2.2. Tự do ngôn luận vẫn phải tôn trọng tôn giáo! - 52 -
II. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP TRỰC TIẾP TỚI BÁO CHÍ - 55 -
1. Can thiệp bằng luật báo chí - 55 -
1.1. Tại Mỹ - 55 -
1.2. Tại Pháp - 57 -
1.3. T ại Singapo - 57 -
1.4. Tại Thái Lan - 58 -
1.5. Tại Anh - 58 -
2. Can thiệp bằng các hình thức ngoài luật - 59 -
CHƯƠNG IV: HỆ QUẢ CỦA SỰ CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC TBCN ĐỐI VỚI BÁO CHÍ - 61 -
1. Báo chí TBCN sụt giảm đáng kể - 61 -
2. Độc giả mất lòng tin - 62 -
1. Báo chí Việt Nam có thời kì bị kiểm duyệt - 65 -
2. Sau năm 1954, báo chí Việt Nam hoàn toàn tự do - 68 -
3. Báo chí Việt Nam hiện nay - 73 -
4. Nhìn thẳng về báo chí Việt Nam và báo chí TBCN (Mỹ làm đại diện) - 79 -
KẾT LUẬN - 84 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO - 85 -
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

hát triển, nguồn thu từ quảng cáo ngày càng lớn, chiếm phần chủ yếu tổng doanh thu của các tờ báo, các đài phát thanh truyền hình, còn những tờ báo phát không, có nghĩa là các hợp đồng quảng cáo trở thành nguồn thu duy nhất. Nguồn lợi gián tiếp mà các tập đoàn báo chí, truyền thông thu được qua việc tạo ra những ảnh hưởng chính trị, làm thay đổi các chính sách của nhà nước, hình thành những điều kiện đầu tư thuận lợi, những đơn đặt hàng béo bở. Về sâu xa thì đây mới là nguồn lợi to lớn hơn mà các nhà tư bản hướng tới. Và là lý do quan trọng nhất để dẫn tới sự liên kết báo chí với giới truyền thông với công nghiệp, tài chính, dịch vụ để hình thành những tập đoàn độc quyền khổng lồ. Điều ấy cũng giải thích tại sao các tập đoàn công nghiệp, tài chính lớn ở mỹ và các nước phương tây luôn đóng vai trò to lớn và tích cực trong bầu cử.
Các tập đoàn tư bản thông qua báo chí để quảng bá, quảng cáo, giữ gìn, đánh bóng thương hiệu của mình, dùng báo chí làm cầu nối giữa sản phẩm của mình với công chúng. Hơn nữa, báo chí lại là ngành kinh doanh ra tiền. Các tài phiệt truyền thông như Rupert Murdoch cho chúng ta thấy kinh doanh các loại hình media cho lợi nhuận khổng lồ, chủ tòa báo hay nhà in thường là một doanh nhân nhiều hơn là một nhà báo.
Từ khi khai sinh, mục đích thương mại của báo in đã rất rõ ràng. Tờ Anzeiger (nghĩa là người quảng cáo) xuất bản ở Dresden (Đức) năm 1730, theo nhà nghiên cứu Anthony Smith, đã tự cho mình là phục vụ tất cả những ai trong hay ngoài thành phố muốn mua hay bán, cho thuê hay đi thuê, cho vay hay đi vay. Ở Mỹ, trong thời gian thuộc địa, thương mại đã là một yếu tố tiên quyết của báo chí ( theo M, Emery và E, Emery, The Press and America: An Interpretive History of the Mass Media, xuất bản lần thứ 6, Nxb. Prentice-Hall, 1988, tr. 19, 20). Nhu cầu về buôn bán hàng hoá tiêu dùng, đặc biệt thông tin về những chuyến tàu chở hàng từ bên kia đại dương để lại kết quả là các tờ báo ban đầu hầu hết đều gắn với từ “người quảng cáo” (advertiser) trên vi-nhét.
Vai trò của nhà báo đã thay đổi sâu sắc nếu chúng ta đồng ý với ý tưởng của Simon Canning trên tờ The Australian: “Mọi thứ có thể sẽ thay đổi và nhà báo sẽ sớm thấy công việc của họ không chỉ là phản ánh sự kiện, mà chính là phương tiện mà các nhà quảng cáo phát tán thông điệp của mình”. Thậm chí báo chí và thương mại đã luôn sát cánh kề vai, Canning cũng chỉ ra rằng quảng cáo đã kiếm được rất nhiều lợi nhuận bằng cách đặt các thông điệp quảng cáo của họ cạnh tin tức. Như thế, các nhà báo đã “bị ép để cho những thông tin thương mại giống như thế trở thành tin tức”.
Internet cung cấp một môi trường tuyệt vời cho ngành quảng cáo và do đó báo chí điện tử dù muốn dù không cũng bị ảnh hưởng. Một ví dụ mà Canning đưa ra là phần mềm quảng cáo gọi là IntelliTXT của công ty quảng cáo trực tuyến Vibrant Media ở Mỹ. Khi các nhà quảng cáo sử dụng hệ thống này, họ có thể biến hàng trăm từ trong bài báo có tiềm năng gây thu hút về sản phẩm của họ mà bạn đọc có thể đọc, sang dạng có kết nối đến quảng cáo. Và chỉ cần di con chuột đến vị trí từ đó, một màn hình nhỏ sẽ hiện ngay ra mời gọi người đọc nhấn chuột vào trang quảng cáo chính thức. Ứng dụng này khiến các chuyên gia báo chí Mỹ lo ngại về việc nhà báo chọn từ khi viết, bởi họ sẽ hướng tới những từ dễ được chuyến sang kết nối đến trang quảng cáo.
Riêng ngành công nghiệp báo in Mỹ: thu nhập tăng từ 12.2 tỉ USD vào năm 1975 lên 54.9 tỉ USD năm 2000. Nói cách khác, báo in đã thu nhập tăng gấp 2.5 lần từ quảng cáo ở năm 2000 so với năm 1950. (Robert G. Picard. Commercialism and newspaper quality. Tạp chí Newspaper Research Journal, Quyển 25, số 1, Mùa Đông 2004, tr. 54)
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác dẫn tới sự can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí như: nguyên nhân về văn hoá, nguyên nhân về khoa học kỹ thuật… Tuy nhiên, chúng tui chưa có điều kiện tổng hợp hết.
CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI VỚI BÁO CHÍ
I. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP GIÁN TIẾP TỚI BÁO CHÍ
Trong nhiều trường hợp, nhà nước TBCN không trực tiếp nhúng tay vào dòng chảy của báo chí mà thông qua các ông chủ tập đoàn, từ đó tạo áp lực lên các cơ quan báo chí bằng nhiều hình thức: thao túng cơ quan báo chí hay xây dựng các cơ quan báo chí…
1. Nhà nước TBCN xây dựng cơ quan báo chí
Khi nhà nước TBCN đứng ra xây dựng hay mua cổ phần các cơ quan báo chí, tức các cơ quan báo chí đó thuộc về chính quyền, phục vụ cho lợi ích của chính quyền, và chịu sự giám sát chặt chẽ.
VD1: Vào năm 1998, chính phủ Tony Blair của Anh Quốc đã thành lập một Bộ Phận Truyền Thông Chiến Lược (the Strategic Communications Unit), bao gồm các ký giả và nhân viên thông tin, để giúp điều hợp thông tin liên lạc cũng như để viết bài cho các vị Bộ Trưởng. Thêm vào đó, trong thời đại thế giới thay đổi nhanh chóng hàng ngày, giới chính trị ngày càng lệ thuộc vào những chuyên gia truyền thông để hoạch định chiến lược hầu ảnh hưởng lên chương trình nghị sự (của các cơ quan truyền thông chính mạch mỗi ngày) cũng như tác động và xoay chuyển (spin) giới ký giả để cho các bài tường trình trên báo, truyền thanh hay truyền hình đi theo chiều hướng thuận lợi nhất cho họ. Cũng trong thời đại này, thiếu khả năng để chủ động quản lý truyền thông sẽ làm cho đảng phái đó mất thế thượng phong, và có thể mất cả vị trí ảnh hưởng, dù trước đây có mạnh lớn cỡ nào. Nói tóm lại, truyền thông chính trị trở thành một thành tố quan yếu trong các hệ thống chính trị dân chủ hiện nay.
VD2: HÃNG THÔNG TẤN AFP
Charles Louis Havas đã sáng lập ra Agence Havas vào năm 1835 nhằm cung cấp thông tin cho báo chí, tạp chí định kỳ vào các tạp chí khác ở Pháp. Tuy nhiên cũng chính quyền lực về thị trường truyền thông và tin tức đã dẫn đến sự sụp đổ của Agence Havas ngay đầu thế chiến thứ hai. Khi đó, Agence Havas đã bị tước bỏ những dịch vụ phân phối truyền thông của nó và bị chính quyền Pháp tiến hành quản lý, kiểm duyệt. Nó được đổi tên thành Office Fancs d’information (French Information Office - FIO) vào 1940. Tiếp theo, hãng thông tấn mới này nhanh chóng bị thâu tóm bởi Bazis sau khi Pháp đầu hàng phát xít Đức. Mạng lưới phân phối trước đây của Agence Havas được sử dụng lại phục vụ cho Nazi và chính quyền Vichy.
Năm 1944 việc hoạt động của hãng FIO được điều khiển bởi một nhóm cựu thành viên của Fench Resistance và FIO được đổi tên thành Agence France-Press (AFP). Những người này lấy lại quyền điều hành và nhanh chóng lấy lại được cơ cấu cũng như danh tiếng toàn cầu của Agence Havas trước đây. Tuy nhiên việc trợ vốn sâu sắc của chính quyền đã làm cho AFP không lâu sau đó chịu sự kiểm soát của chính quyền.
AFP vẫn còn là một cánh tay đắc lực của chính phủ cho đến 1950. Khi đó hãng đối mặt với sự cạnh tranh mới trong nước với hãng Agece Centrade Presse hoạt động từ 1951 cũng như các hãng thông tấn quốc tế là AP, Reuters… Trong khi các hãng thông tấn khác hoạt động độc lập và có khuynh hướng về thương mại thì AFP bị giới h
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status