Thông tin về hoạt động xuất khẩu lao động - pdf 16

Download miễn phí Khóa luận Thông tin về hoạt động xuất khẩu lao động



Với chiêu bài tuyển người đi Hàn Quốc để học nghề thời gian từ 1 đến 2 năm và yêu cầu đặt cọc 5.000 USD, Trần Phi Hùng đã trực tiếp ký hợp đồng và thu tiền đặt cọc của 8 người là 35.000 USD (theo tỷ giá tại thời điểm tương đương là 519.680.000 đồng). Ngoài ra vợ chồng Hùng, Hương còn thông qua Vũ Công Khanh và Ngô Vân Hoài là Giám đốc và Phó giám đốc Công ty cổ phần đào tạo và hợp tác lao động Đại Đồng để công ty này ký hợp đồng lao động với 24 người và thu số tiền là 82.500 USD và 6.500.000 (qui đổi = 1.209.895.000 đồng) đưa cho Hùng. Những người lao động khai sau khi ký hợp đồng lao động và nộp tiền đặt cọc, theo hẹn của Trần Phi Hùng, Vũ Công Khanh và Ngô Vân Hoài, họ đã nhiều lần đến Hà Nội để tập trung đi Hàn Quốc nhưng đều không được đi với nhiều lý do mà Hùng, Công, Khanh đưa ra như “ở Hàn Quốc có bão tuyết, máy bay không hạ cánh được”, hay “công nhân hàn Quốc - Việt nam đánh nhau”, rồi “chủ Hàn Quốc ở Việt Nam chưa về” hay “về nước chưa sang”



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

xảy ra với lao động ta tại Malaysia.
“Thèm thuốc – hút thuốc”, “thèm kẹo - bốc kẹo ăn”, “thèm rượu, thịt chó” – lao động ta cũng rình “tóm cổ” con chó cưng của quản đốc phân xưởng mang về phòng chế biến rồi mua rượu về đánh chén. Chuyện xảy ra ở một nhà máy ở Penang. Vì chuyện này, sau khi phát giác, từ ông chủ cho đến anh em công nhân bản xứ và người nước ngoài đều nhìn lao động ta như nhìn những quái vật. (Ăn thịt chó là một điều khủng khiếp ở đất nước đạo Hồi này, ấy là chưa kể chó cưng, chó cảnh của người ta ).
Luật pháp Malaysia cực kỳ nghiêm khắc đối với những hành vi hành nghề và chứa chấp gái mại dâm. Thế nhưng lại có chuyện 10 lao động Việt nam đưa 1 cô gái về phòng ở để tá túc, để cơm nước giặt giũ và đương nhiên là có… “chuyện ấy”. Sau khi bị phát giác, 10 công nhân này phải góp tiền mua vé cho cô gái về nước ngay lập tức - rất may là không ai phải ngồi tù vì ông chủ không giao sự việc cho cảnh sát…
Tính kỷ luật là một trong những nguyên tắc hàng đầu nhưng một số công nhân Việt Nam không dễ dàng thích nghi mặc dù họ đã được dặn dò trước khi đi. Có không ít nam lao động sau giờ làm việc lại đánh bài, uống rượu hay trêu chọc phụ nữ - những điều bị xem là cấm kị ở quốc gia Hồi giáo này. Các vụ việc xô xát xảy ra giữa lao động Việt nam và lao động nước ngoài thời gian gần đây cũng làm xấu đi hình ảnh của lao động ta đối với đối tác.
Chẳng hạn, trong dịp Tết 2003, tại Công ty Sekoplas (Malaysia) đã xảy ra trường hợp công nhân Việt Nam sau khi uống rượu bia say xỉn đã tự đánh lẫn nhau đến mức một số công nhân bị đánh phải chạy vào công ty – nơi đang làm việc để “trốn”. Gần đây nhất là vụ xô xát giữa lao động Việt Nam với lao động Bangladesh vào cuối tháng 1 năm 2003 khiến 68 lao động Việt nam bị trục xuất về nước.
Với một số lao động Việt Nam, ăn cắp vặt sản phẩm, cña nhà máy cũng là chuyện không phải hiếm. Tại một nhà máy chế biến thịt gà ở ngoại ô Kuala Lumpur, một vài công nhân đã ăn cắp thịt gà (dù có thể xin một ít để dùng) khiến nhà máy phải dùng hình thức kỷ luật cảnh cáo thay vì trục xuất về nước. Một số trường hợp khác, công nhân làm việc tại các nhà máy sản xuất, chế tạo thì “chôm” những sản phẩm nhỏ của nhà máy. Hậu quả là thay mặt của đơn vị XKLĐ có mặt tại Malaysia phải tất bật lo giải quyết, người lao động bị trục xuất về nước - gần như mất trắng khoản đầu tư ban đầu cho tiền vé máy bay đi lại, tiền thuế đã đóng khi sang lao động tại nước sở tại. (Khãc, c­êi ë Kul- Lao §éng sè 51 ngµy 20/2/2003).
Ông Đàm Trung Bắc, Giám đốc trung tâm XKLĐ công ty COOPIMEX trong cuộc “Bàn tròn” của các nhà quản lý và các doanh nghiệp cung ứng LĐXK trên Thời báo Kinh tế Việt Nam số 55 – thứ Bảy – 5/4/2003 đã có những nhận định xác thực. Theo ông, vấn đề chất lượng LĐXK có liên quan mật thiết đến công tác đào tạo của các doanh nghiệp XKLĐ. Cụ thể là “cách thức tổ chức đào tạo của các công ty XKLĐ hiện nay chưa đạt hiệu quả, gây ra sự than phiền của đối tác nước ngoài”.
Điều này cũng được Thời báo Kinh tế Việt Nam số 84 - thứ Tư – 26/5/2004 nói rõ.
“Nhiều người đi XKLĐ trở về đều cho rằng, các khoá học do doanh nghiệp tổ chức chỉ đơn thuần là vài buổi gặp mặt nói chuyện giữa hai phía. Công ty giới thiệu sơ lược về công việc mà lao động sẽ làm, dạy người lao động vài câu giao tiếp bằng ngôn ngữ bản xứ. Chỉ một số ít doanh nghiệp thực hiện tốt việc giáo dục định hướng về nền văn hoá, những nguyên tắc chung của nước bạn cho lao động trước khi họ sang nước ngoài làm việc. Thế là xong. Mọi việc người lao động sang bên kia gần như tự mình xoay sở.”
Lại có hiện tượng “một số doanh nghiệp tổ chức đào tạo tràn lan”, cốt sao có nhiều người đến học càng tốt”(Thời báo Kinh tế Việt Nam số 15 - thứ Bảy – 25/1/2003). “Các học viên này không được lựa chọn sát hạch kỹ. Thậm chí những người chưa học hết bậc tiểu học nhưng “chạy” được những bằng “đểu” ở đâu đó cũng được chấp nhận. Khoá cũ đào tạo xong, các công ty môi giới Đài Loan chưa sang tuyển đã tiếp tục đào tạo các khoá mới”. Sau đó là điều tưởng như vô lý, “đến lúc thi tuyển để đi, có phần thi tiếng Trung và các test khác nhưng một số công ty môi giới Đài Loan hình như không để ý lắm mà chỉ tập trung vào xem “tướng” tay và mặt.
Do vậy, một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng nguồn lao động là chấn chỉnh lại hoạt động tuyển chọn, đào tạo nguồn và giáo dục định hướng cho người lao động xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp. VÒ c«ng t¸c gi¸o dôc ®Þnh h­íng, ngoµi nh÷ng h­íng dÉn cho ng­êi lao ®éng vÒ phong tôc, tËp qu¸n, ph¸p luËt n­íc ®Õn, c¸c doanh nghiÖp ph¶i tËp trung gi¸o dôc ý thøc tr¸ch nhiÖm c«ng d©n cña ng­êi lao ®éng ®èi víi ®Êt n­íc vµ ph©n tÝch cho hä thÊy râ ®­îc nh÷ng hËu qu¶, thiÖt h¹i cã thÓ xÈy ®Õn nÕu hä kh«ng tu©n thñ nh÷ng quy ®Þnh cña doanh nghiÖp vµ luËt ph¸p n­íc së t¹i. M« h×nh liªn kÕt gi÷a c¸c doanh nghiÖp XKL§ vµ c¸c ®Þa ph­¬ng cÇn ®­îc triÓn khai réng r·i vµ hiÖu qu¶ h¬n n÷a nh»m tuyÓn chän vµ ®µo t¹o ®­îc nh÷ng lao ®éng cã ®ñ ®iÒu kiÖn, tiªu chuÈn vÒ chÊt l­îng vµ lµ lao ®éng “s¹ch” vÒ lý lÞch nh©n th©n. §iÒu nµy kh«ng nh÷ng n©ng cao ®­îc chÊt l­îng nguån lao ®éng xuÊt khÈu mµ cßn h¹n chÕ mét sè bÊt cËp kh¸c cã thÓ x¶y ra khi lao ®éng thùc hiÖn hîp ®ång ®i xuÊt khÈu lao ®éng.
2.3.2. “Hội chứng bỏ hợp đồng” và sự luẩn quẩn trong giải pháp chống trốn
Ngoài chất lượng lao động thấp, XKLĐ của Việt Nam còn chưa thực sự hiệu quả vì tình trạng người lao động tự ý phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp đã ở mức báo động. Tình trạng này không chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước và các doanh nghiệp XKLĐ mà còn là các thiệt thòi cho chính bản thân người lao động.
Báo Lao động số 306 ra ngày 2/11/2003 viết: “Thị trường người lao động Việt Nam mới mở ra, còn rất non trẻ, vậy mà đang đứng trước nguy cơ mất uy tín trên trường quốc tế, bị cắt các hợp đồng kinh tế đã ký kết do cã quá nhiều lao động tự ý bỏ hợp đồng…”.
Tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam số 178 - thứ Sáu- 29/10/2004 cũng viết: “Không ít ông chủ sử dụng lao động ở Hàn Quốc, Đài Loan phải thất vọng trở về từ sân bay sau khi đãn hụt lao động Việt Nam. Không còn là hồi chuông báo động gióng lên, “dịch trốn” đã trở thành bệnh kinh niên và thị trường nhiều nước đang sắp sửa nói lời chào thua với lao động Việt Nam, trong khi nhà quản lý chưa đưa ra được phương thuốc hữu hiệu…”
Tại Hàn Quốc, Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc (KFSB) thống kê vào tháng 7/2003, hiện Việt Nam có 17.457 người lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc - xếp thứ 3 trong số 15 quốc gia tham gia chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp (sau Trung Quốc và Indonesia). Nhưng tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp cũng lên đến 59,25% - đứng thứ 3 (sau Banglades và Myanmar). Tính riêng ở thị trường Hàn Quốc từ năm 1994 đến nay, số lượng lao ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status