Pháp luật hiện hành về sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và một số hạn chế - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Pháp luật hiện hành về sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và một số hạn chế



Đối với một gia đình có đặc điểm một số đồng thừa kế hiện sinh sống ở nước ngoài. Câu hỏi đặt ra là tất cả những người đã ra nước ngoài, vẫn còn quốc tịch Việt Nam thì có quyền đứng tên đồng thừa kế theo nguyện vọng không? Để có thể cùng đứng tên đồng sở hữu nhà ở được thừa kế tại Việt Nam, tất cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam phải được cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam cư trú tại Việt Nam từ 3 tháng trở lên. Trường hợp có một hay tất cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài (vẫn còn quốc tịch Việt Nam) của gia đình đó không đủ điều kiện để được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì phải chuyển nhượng hay tặng cho lại phần tài sản thừa kế (là một phần nhà ở hay nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở được hưởng từ di sản thừa kế do người chết để lại) của mình cho người khác.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

goài cũng không ngoại lệ.
Một số vấn đề lý luận chung
Các khái niệm chung
Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Luật Quốc tịch năm 2008 quy định rõ khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài, theo đó: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định và đảm bảo quyền sở hữu nhà ở của công dân. Theo đó, quyền sử hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được hiểu là bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt nhà ở của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Khái niệm quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam
Theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền của người sở hữu nhà ở là khả năng mà pháp luật cho phép người sở hữu nhà ở được thực hiện những hành vi nhất định trong quá trình sử dụng nhằm sử dụng nhà ở đúng mục đích, hợp lí, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao. Còn nghĩa vụ của người sở hữu nhà ở là cách xử sự mà pháp luật bắt buộc người sở hữu phải tiến hành trong quá trình sử dụng nhằm không làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của các chủ thể sử dụng đất khác.
Cơ sở lí luận của việc ban hành các quy định về người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam
Các quy định về quyền sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam được xây dựng dựa trên những cơ sở lí luận sau: Thứ nhất là quan điểm và đường lối của Đảng về chính sách đại đoàn kết toàn dân trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để khuyến khích kiều bào ở nước ngoài hướng về quê hương và có những đóng góp thiết thực vào công cuộc xây dựng đất nước, Đảng và nhà nước ta phải có những chính sách, pháp luật nhằm bảo hộ quyền và lợi ích hợi pháp của họ. Một trong những chính sách, pháp luật đó là việc quy định các vấn đề pháp lí đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Thứ hai là một trong những yêu cầu của việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới hiện nay là phải hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế kinh tế thị trường là trước hết phải hình thành các thị trương mang tính “đầu vào” của hoạt động sản xuất kinh doanh; đó là thị trường vốn, lao động, thị trường bất động sản và thị trường khoa học công nghệ. Thứ ba, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và chủ động từng bước hội nhập và nền kinh tế toàn cầu của Nhà nước ta.
Cơ sở thực tiễn của việc cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam
Trước hết là xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài mong được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Một trong những hình thức đóng góp thiết thực đó là mang chất xám, trí tuệ, vốn liếng về đầu tư, làm ăn tại Việt Nam. Muốn vậy trước tiên họ phải có đất và có quyền sử dụng đât, có quyền sở hữu nhà ở. Thứ hai, những khó khăn của người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong vấn đề sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Hiện nay các quy định pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn rất hạn chế, nên chưa tạo được hành lang pháp lý bảo đảm quyền sở hữu nhà của họ tịa Việt Nam. Thứ ba, nước ta phát triển kinh tế trong điều kiện một nước nông nghiệp cùng kiệt nàn lạc hậu thiếu nguồn vốn đầu tư, thiếu nhân lực có trình độ cao, thiếu máy móc công nghệ hiện đại, thiếu kĩ năng quản lí, văn hóa kinh doanh tiên tiến. Trong khi đó, cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài lại nắm giữ những lợi thế này do sinh sống, học tập lâu dài ở các nước công nghiệp phát triển. Để khai thác, phát huy thế mạnh này của bà con kiều bào, chúng ta phải có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho họ đầu tư, làm ăn sinh sống tại quyê hương.
Pháp luật hiện hành về sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và một số hạn chế
Các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật dân sự 2005, Luật Đất đai năm 2003, luật Nhà ở năm 2005 và các văn bản Luật, dưới luật hướng dẫn thi hành như Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 quy định chi tiết về thi hành các quy định của Bộ luật dân sự có yếu tố nước ngoài… đều có những quy định nhằm bảo hộ quyền sở hữu của người Việt Nam định cư ở nước ngoài xảy ra một số hạn chế như sau:
1. Quy định của pháp luật hiện hành về đối tượng và điều kiện người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam
Địa vị pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài do pháp luật nước họ sinh sống quy định là cơ bản, ngoài ra còn được quy định trong pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết với các nước hữu quan. Công dân Việt Nam ở nước ngoài được các cơ quan ngoại giao và lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ các quyền lợi hợp pháp. Sau hơn hai năm Luật Nhà ở năm 2005 có hiệu lực, chỉ có hơn 140 trường hợp Việt kiều được công nhận quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Nhà văn hóa, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam mới thuộc diện được sở hữu nhà. Tuy nhiên rất khó xác định điều kiện này trên thực tế. Hiện nay đã có một số nhà khoa học là Việt kiều về Việt Nam giảng dạy, hợp tác nghiên cứu, làm chuyên gia nhưng vẫn không được sở hữu nhà vì cơ quan chức năng cho rằng mỗi năm họ chỉ về một, hai lần chứ không về thường xuyên nên mặc nhiên không được mua nhà. Hơn nữa, theo khoản 2 điều 126 Luật nhà ở năm 2005, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã về Việt Nam cư trú với thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở. Những tồn tại trên đây trong các quy định của Luật nhà ở năm 2005 đã cản trở người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong việc được mua nhà ở tại Việt Nam. Điều này sẽ làm giảm ý định về đầu tư, làm ăn lâu dài tại Việt Nam của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Như vậy, chủ trương khuyến khích, kêu gọi và tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài về tìm hiểu cơ hội hợp tác đầu tư, làm ăn lâu dài tại Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta lại vấp phải cản trở khi triển khai đi vào cuộc sống. Để tháo gỡ những vướng mắc này, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở và Luật Đất đai năm 2009 đã được ban hành với nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là phải hiểu thế nào là ”người có quốc tịch Việt Nam” và ”người gốc Việt Nam”; bởi lẽ, nếu không làm rõ nội hàm các thuật ngữ này thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc mua nhà ở tại Việt Nam, thậm chí là không mua được nhà ở Về vấn đề này, Luật quốc tịch năm 2008 đã quy định rõ: khoản 1 điều 5 ”Người có quốc tịch Việt Nam là cô...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status