Phân tích sự thay đổi điển nhìn của nhà văn Nam Cao trong các truyện ngắn: Đời thừa, Đón khách, Trăng sáng, Bài học quét nhà, Nước mắt - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Phân tích sự thay đổi điển nhìn của nhà văn Nam Cao trong các truyện ngắn: Đời thừa, Đón khách, Trăng sáng, Bài học quét nhà, Nước mắt



MỤC LỤC
 
I. MỞ ĐẦU 1
II. NỘI DUNG 3
1. Trăng sáng 3
2. Đời Thừa 4
3. Đón khách 5
4. Bài học quét nhà 6
5. Nước mắt 7
III. KẾT LUẬN 9
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Phân tích sự thay đổi điển nhìn của nhà văn Nam Cao trong các truyện ngắn: Đời thừa, Đón khách, Trăng sáng, Bài học quét nhà, Nước mắt
I. MỞ ĐẦU
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí (1915 – 1951), sinh ra ở làng Đại Hoàng thuộc tổng cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc xã Hoà Hậu – Lý Nhân – Hà Nam). Nam Cao có sáng tác đăng báo từ 1936, những sự nghiệp văn học của ông chỉ thực sự bắt đầu từ truyện ngắn “Chí Phèo” (1941). Sáng tác trước cách mạng của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính: Cuộc sống người trí thức tiểu t sản cùng kiệt và cuộc sống ngời nông dân ở quê hương. Ở bài viết nhỏ này, em xin làm ở mảng đề tài cuộc sống trí thức tiểu tư sản cùng kiệt của Nam Cao trong đó có các truyện ngắn như:
1. Đời thừa.
2. Đón khách.
3. Trăng sáng.
4. Bài học quét nhà.
5. Nước mắt.
Đây là những truyện ngắn của Nam Cao viết về ngời trí thức tiểu t sản nghèo. Trong những sáng tác này Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực tình cảm cùng kiệt khổ, dở sống, dở chết của những nhà văn nghèo, những “giáo khổ trờng tủ” học sinh thất nghiệp ... nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, vợt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là tấm bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của ngời trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần, nhng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn” phải sống cuộc sống “đời thừa”. Những tác phẩm đó đã phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con ngời, đồng thời đã thể hiện sự tự đấu tranh bên trong của ngời trí thức tiểu t sản trung thực cố vơn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực sự có ý nghĩa xứng đáng là cuộc sống con ngời.
Có thể nói, dù viết về ngời trí thức cùng kiệt hay về ngời nông dân cùng khổ. Nam Cao luôn day dứt tới đau đớn trớc tình trạng con ngời bị sói mòn về nhân phẩm thậm chí bị huỷ diệt cả nhân tính, trong cái xã hội phi nhân đạo đơng thời.
Truyện ngắn “Trăng sáng” (1943) đợc coi là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trớc cách mạng, ông viết “chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than ... ”. Theo Nam Cao, ngời cầm bút không đợc “trốn tránh sự thực, mà cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”.
Còn trong truyện ngắn “Đời thừa” (1943) Nam Cao cho rằng một tác phẩm “thật giá trị” thì phải có một nội dung sâu sắc: “Nó phải chứa đựng đợc một cái gì lớn lao, mạng mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thơng, tình bác ái, sự công bình ... ”. Nó làm cho ngời gần ngời hơn.
Trong ba truyện ngắn còn lại: “Đón khách”, “Bài học quét nhà”, “Nớc mắt”, tuy rằng những truyện ngắn này không đi sâu vào cuộc sống của ngời trí thức nhng cũng phần nào nói lên cuộc sống khổ cực về cơm áo, gạo tiền, day dứt trăn trở về cuộc sống.
Từ đầu đến cuối truyện (trong chuyện trên) tác giả Nam Cao đã có sự thay đổi điểm nhìn của các truyện nói chung, mỗi truyện nói riêng.
II. NỘI DUNG
1. Trăng sáng
Truyện ngắn “Trăng sáng” đợc viết năm 1943, truyện viết về ngời trí thức cùng kiệt Điền là nhân vật chính xuyên suốt tác phẩm. Điền là nhân vật thay mặt cho anh trí thức cùng kiệt trong các truyện ngắn viết về ngời trí thức của Nam Cao.
Điền là anh giáo khổ trờng t, nhng nay đã thất nghiệp tiền dạy học tháng cuối cha thu đợc của học sinh, lai bị ông hiệu trởng nợ mất nửa tháng lơng không có tiền trả Điền, ông bảo Điền mang bộ ghế mây của ông về dùng. Bất đắc dĩ Điền phải cầm bốn chiếc ghế mây vì Điền rất nể ông hiệu trởng. Đoạn đầu truyện Nam Cao đã diễn tả cuộc sống của Điền rất êm đẹp, đầy lãng mạn với bốn chiếc ghế mây bắt ra sân ngồi ngắm trăng. Điền luôn suy nghĩ và mơ mộng, Điền yêu trăng, anh cho rằng trăng và cái gì đó rất cao đẹp và thơ mộng. Điền không ân hận vì bố mẹ đã mất nhiều tiền của cho anh ăn học giờ anh chẳng làm đợc gì, nhng có một điều anh luôn tin rằng cái việc hoc của anh đã giúp ích cho anh nhiều lắm, nhờ nó mà anh đọc nổi văn thơ và nhờ văn thơ mà anh hiểu đợc cái đẹp của gió của trăng. Anh cảm giác cuộc đời nh vậy là anh toại nguyện, anh hơn ngời, anh vui vẻ, nhng ngợc lại với ngời vợ thì lúc này Nam Cao lại có cái nhìn khác, tác giả nh hoá thân vào chính nhân vật để nhân vật ấy tức Điền có một cách nhìn nhận về vợ anh, anh phàn nàn cho những tâm hồn cằn cỗi nh tâm hồn của vợ Điền. Đối với thị trăng chỉ là ... đỡ tốn 2 xu dầu mỗi tối. Hai xu dầu chẳng là bao nhng thị nghĩ mời cái hai xu cũng là khá nhiều. “những kẻ chỉ suốt đời tính toán là những kẻ tự làm khổ thân suốt đời” anh vẫn trách vợ anh nh vậy. Nhng chính lúc này đây anh lại có những suy nghĩ và cách nhìn nhận khác anh lúc ban đầu. Và ngay lúc này lúc ngồi ngắm trăng để tạm quên đi những lo toan thờng ngày, lo toan cho cuộc sống, cái lo nhỏ nhen của kiếp ngời, Điền cũng còn tính vẩn vơ, Điền ớc có một thật thanh bình, đơn giản, để cho anh không còn phải lo tính kế nữa và anh có thể rảnh rang theo đuổi cái mộng của anh ... đó là cái mộng văn chơng. Nhng đó chỉ là ớc mơ Điền không bao giờ thực hiện đợc bởi cuộc sống cơm áo không cho phép anh theo đuổi sự nghiệp mà anh từng mơ ớc, anh phải tạm quên nó đi và phải nghĩ đến gia đình, nghĩ đến việc kiếm tiền.
Đến phần này Nam Cao miêu tả cảnh gia đình Điền thật nheo nhóc khổ sở, lúc này tác giả có cái nhìn khác hẳn so với lúc ban đầu, vì vậy mà ngôn ngữ của Nam Cao cũng thay đổi: “con bé khóc hết hơi. Con lớn thì lem luốc, mũi dãi nghếch ngoác bôi đầy mặt ... thị thấy lòng nổi lên sôi sục, thị giậm chân bành bạch lên kêu trời. Thị đánh con lớn, chửi con nhỏ, quẳng cái chổi, đá cái thùng và càu nhàu trống không”. Nét mặt cau có, ngôn ngữ cục cằn và nhất là cái lời yêu quá đơn sơ của vợ Điền làm Điền khổ. Anh cảm giác thiếu thốn tình cảm, nếu cứ sống trong cái cảnh này, trong cái gia đình này, với những cái e sợ nhỏ nhen sẽ làm cho anh chết dần và cạn kiệt nguồn văn thơ quý báu của anh ta, lúc này anh ta lại nghĩ đến những ngời đàn bà nhàn hạ, suốt ngày chỉ ăn chơi nhàn hạ. Chính cuộc đời anh cảm giác khổ cực quá nên anh luôn ao ớc và nghĩ đến những điều xa sôi và đẹp đẽ về những ngời đàn bà vợ anh, anh cảm giác cha bao giờ có, và anh đánh giá là thị chẳng đáng đợc yêu quý, chẳng đáng đợc cho Điền thơng hại. Vì cuộc sống gia đình nên Điền có cái nhìn về ngời vợ trở nên xấu xí méo mó.
Trong các tác phẩm lúc thì tác giả nhập vào vai Điền, lúc thì nhập vào vai vợ Điền lúc đứng là ngời ngoài để nói lên nhng cuộc sống xã hội thời phong kiến. Ngôn ngữ của Nam Cáo lúc thì nhẹ nhàng, lúc thì cay độc tất cả những cái đó làm cho văn ông trở nên là những tác phẩm bất hủ.
2. Đời Th...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status