Bước đầu tìm hiểu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc theo chiều dài lịch sử (Môn Phương pháp nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ học) - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Bước đầu tìm hiểu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc theo chiều dài lịch sử (Môn Phương pháp nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ học)



MỤC LỤC
 
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
Tiếng Hà Nội trong mối quan hệ giữa các phương ngữ Bắc – Trung - Nam 4
CHƯƠNG II 12
Tiếng Hà Nội với tiếng Việt toàn dân 12
CHƯƠNG III 14
Tiếng Hà Nội với vấn đề địa lý và cư dân Hà Nội 14
KẾT LUẬN 22
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

phân biệt s/ x, r/ d/ gi, tr/ ch.
Hệ thống âm cuối có đủ các âm cuối ghi trong chính tả. Có ba cặp âm cuối ở thế phân bố bổ túc. Phương ngữ Bắc có thể chia làm ba vùng nhỏ hơn:
a) Phương ngữ vòng cung biên giới phía Bắc nước ta. Phần lớn người Việt ở đây mới đến từ các tỉnh đồng bằng có mật độ cao như Thái Bình, Hà Nam Ninh. Do quá trình cộng cư xảy ra trong thời gian gần đây, nên phương ngữ phát triển theo hướng thống nhất với ngôn ngữ văn học, mang những nét khái quát chung của phương ngữ Bắc, và không chia manh mún thành nhiều thổ ngữ làng xã như phương ngữ Bắc ở các vùng đồng bằng, cái nôi của người Việt cổ.
b) Phương ngữ vùng Hà Nội và các tỉnh xung quanh( Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình, Hải Hưng, Hải Phòng) mang những nét đặc trưng tiêu biểu của phương ngữ Bắc.
c) Phương ngữ miền hạ lưu sông Hồng và ven biển( Thái Bình, Hà Nam Ninh, Quảng Ninh) còn giữ lại cách phát âm khu biệt“ d“ với“ gi, r“,” s“ với“ x“,” tr“ vơí“ ch“ mà ở các phương ngữ Bắc khác không còn phân biệt nữa.
ở Bắc bộ thực tế có những chữ cái đã mất cách phát âm phân biệt, cho nên người ta đặt cho nó những cái tên gọi khác nhau như ” s” là” xờ nặng”,” x ”là ” xờ nhẹ ”,” d ” là” dê trên ”,” gi” là” dê dưới ”,” tr ” là” chờ nặng ”,” ch” là” chờ nhẹ ”,” l” là” nờ( hay lờ) cao ”;” n ” là” nờ( hay lờ) thấp ”…
Hệ thống đại từ chỉ trỏ và nghi vấn:
Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung Phương ngữ Nam
Này ni nầy
Thế này ri vầy
ấy nớ đó
Thế (ấy ) rứa vậy
Kia tê đó
Kìa tề đó
đâu, nào mô đâu, nào
sao, thế nào răng sao
Hệ thống đại từ xưng hô:
Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung Phương ngữ Nam
tui tui tui
Tao tau tao, qua
Chúng tui bầy tui tụi tui

ở phương ngữ Bắc chỉ duy nhất từ “ nhiều“ là có từ phát sinh: bao nhiêu, bấy nhiêu. ở phương ngữ Bắc chỉ nói“ từ rày“ với nghĩa“ từ nay trở đi“, ở phương ngữ Nam còn nói“ hổm rày“ có nghĩa là“ từ hôm ấy đến nay“.
ở Bắc bộ và Trung bộ nói một câu đơn giản là:” Hôm nay tui ăn cơm rất no“, thì người Nam bộ thường nói là: Hôm nay tui ăn cơm no quá chừng quá đỗi, hay no quá trời quá đất …
Trong phương ngữ Nam có nhiều từ gần đây vay mượn từ tiếng Chàm, tiếng Khơ me, trong phương ngữ Bắc lại có nhiều từ vay mượn từ tiếng Thái; có những từ Hán Việt này đi vào phương ngữ Bắc, nhưng không dùng trong phương ngữ Nam, trái lại ở trường hợp khác thì phương ngữ Bắc giữ nguyên từ thuần Việt, còn phương ngữ Nam lại vay mượn từ Hán Việt v. v…
Biến thể cổ b, đ ở phương ngữ Trung tương ứng với v, z ở phương ngữ Bắc:
- bui/ vui, bá/ vá…
- đa/ da, đưới/ dưới…
Biến thể cổ ở phương ngữ Trung tương ứng với biến thể mới ở phương ngữ Bắc:
a) ph, th, kh/ v, z ( d),( g)
- ăn phúng/ ăn vụng, phở đất/ vỡ đất…
- nhà thốt/ nhà dột, mưa thâm/ mưa dầm…
- khải/ gãi, khở/ gỡ…
b) ch, k/ j #( gi),( g)
- chi/ gì, chừ/ giờ…
Những từ có phụ âm đầu khác với ngôn ngữ văn học có thể tìm thấy trong phương ngữ Bắc nhưng không nhiều hiện tượng như ở phương ngữ Trung: dăn deo/ nhăn nheo, duộm/ nhuộm…
Ngoài ra còn có sự đối ứng giữa nguyên âm khép hơn ở phương ngữ Trung, phương ngữ Nam với nguyên âm mở hơn ở phương ngữ Bắc: u/ ô, ư/ â
- chủi/ chổi, túi/ tối…
- chưn/ chân, nhứt/ nhất…
Có thể nhận ra sự khác nhau về tiếng giữa ba miền ở giọng. Thí dụ, người Hà Nội nghe người Sài Gũn núi cú cảm giỏc họ khụng cú sự phõn biệt giữa -ac với ỏt( mỏt- mỏc; mắc- mắt); giữa -ai với ay( tai- tay; hai– hay); phỏt õm v thành dz( tức là khụng phõn biệt v với d: vụ– dụ).
Người Hà Nội nghe người Huế nói cũng có cảm giác họ không có sự phân biệt giữa thanh hỏi( ?) với thanh ngó( ~): mũ- mủ; cũ- củ. Trong khi đó, người Huế nghe người Hà Nội nói lại có cảm giác người Hà Nội không có sự phân biêt giữa s và x: xôi trong xa xôi với sôi trong nước sôi v. v...
Một sự so sánh từ vựng Việt Nam với từ vựng các ngôn ngữ khác ở Đông Nam á cho thấy những sự thay thế nhau của các từ trong các phương ngữ không phải ngẫu nhiên.“ Hoa“ và“ đầu“ là những từ gốc Hán đã được thay thế những từ Nam á, Nam Đảo như“ trốc“( Mường),” bông“( Mã Lai: bonga) ở phương ngữ Bắc trong khi hai từ này vẫn tồn tại ở các phương ngữ phía Nam,” quả“ thay“ trái“ cũng theo qui luật ấy.
Đồng thời trong vốn từ miền Bắc có nhiều từ Thái hơn, trái lại trong vốn từ phái Nam có nhiều yếu tố Chàm, Khơme hơn. Trong ba phương ngữ chính, phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ Hán Việt hay nhiều từ gốc Hán hơn cả.
Phương ngữ Bắc vì trải qua sự xây dựng của ngôn ngữ văn học trong đó các nhà nho biết chữ Hán đóng một vai trò không nhỏ cho nên dĩ nhiên nó tiếp thu nhiều từ Hán Việt và gốc Hán hơn.
Những yếu tố gốc Hán vào tạo nên những sự xê dịch về mặt nghĩa có thể đi xa đến nỗi ta có những từ đồng âm khác nghĩa ở trong hai phương ngữ Bắc và Trung- Nam. Về mặt từ vựng cũng vậy, có những từ chỉ đặc trưng cho vùng phương ngữ này mà không đặc trưng cho vùng phương ngữ kia.
Thí dụ, các từ“ má, ổng, cổ, ảnh, chỉ, ngoải“ v. v... là đặc trưng cho tiếng Sài Gũn;“ miềng, o, rày, rứa“ v. v... là đặc trưng cho tiếng Huế. Người Hà Nội bấy lâu nay cũng có thể nói“ mắc“( giá mắc),“ nhí“( bồ nhí) v. v... nhưng dường như chúng vẫn chưa ăn nhập lắm với giọng Hà Nội( nếu so sánh các phát ngôn có những từ này bằng giọng Sài Gũn).
So sỏnh tiếp hai cõu sau cú thể thấy rừ điều này:( 1)“ Anh nhớ viết thư cho em nghen!- Dạ” và( 2)“Anh nhớ viết thư cho em nhé– vâng”. Tuy giá trị thông tin như nhau nhưng thử hỏi nếu đổi câu( 1) là giọng Hà Nội và( 2) là giọng Sài Gũn thỡ chắc chắn là một sự gượng gạo khó mà chấp nhận.
ở đa số các phương ngữ Bắc hiện nay, mà tiêu biểu là phương ngữ Hà Nội đã mất đi dãy phụ âm tiền ngạc c, z, s và phụ âm rung r. Ngoài ra phụ âm ngạc, nổ, vô thanh ch được phát âm như một phụ âm tắc– xát đầu lưỡi– răng ở các thế hệ trung và thanh niên Hà Nội.
Nếu ta sắp xếp những sự biến đổi ngữ âm ở các vùng phương ngữ nói trên vào chung một quá trình chuyển hoá ngữ âm thì sẽ thấy được lịch sử phát triển tiếng Việt là tiến từ phương ngữ Trung sang phương ngữ Bắ rồi tiếp tục với phương ngữ Nam.
Nêú so sánh tiếng Việt của Hà Nội với tiếng Việt từ Nghệ Tĩnh trở vào thì người ta thấy ngay hai thanh( ?) và( ~) ở Bắc lại có sự chuyển mã, khi đối chiếu với tiếng Nghệ Tĩnh, hay tiếng Bình Trị Thiên.
Một người Huế nghe người Bắc nói thì chỉ cần chuyển mã thanh( ~) của Bắc thành thanh( ?) của Huế, ngược lại người Bắc nghe( ?) của Huế thì phải giải thích thanh này có thể vừa là( ~) vừa là( ?) và căn cứ vào đó mà xét nội dung của câu nói.
Dĩ nhiên khi một người miền Trung nghe một người Hà Nội nói thì về mặt thanh điệu sự chuyển mã khá dễ dàng: anh ta chỉ cần gộp lại làm một hai thanh khu biệt ở Hà Nội là( ?) và( ~) hay gộp( ~) và( .) làm một.
Trái lại sự phân biệt về phụ âm đầu thì khó hơn bởi vì anh ta phải tách cùng một âm đầu của Hà Nội như “ ch“...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status