Khảo sát lỗi sai về phụ âm đầu: tr/ch, s/x, r/d/gi của học sinh Trung học cơ sở xã Lãng Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Khảo sát lỗi sai về phụ âm đầu: tr/ch, s/x, r/d/gi của học sinh Trung học cơ sở xã Lãng Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang



MỤC LỤC
 
MỞ ĐẦU 0
1. Lí do chọn đề tài 0
2. Mục đích của bài báo cáo thực tập 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1
4. Phương pháp nghiên cứu 1
Chương I 3
CƠ SỞ LÍ LUẬN 3
I. Chữ viết Tiếng Việt và đặc điểm chữ viết tiếng Việt 3
II. Chính tả và chuẩn chính tả 4
1. Chính tả 4
2. Chuẩn chính tả 5
Chương II 7
KHẢO SÁT THỰC TẾ TÌNH HÌNH MẮC LỖI VỀ PHỤ ÂM ĐẦU TR/CH, S/X, R/D/GI CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 7
I. Khái quát chung về địa bàn thực tập 7
1. Huyện Yên Dũng- Bắc Giang 7
2. Xã Lãng Sơn- Yên Dũng 8
3. Trường THCS Lãng Sơn 9
II. Kết quả khảo sát, phân tích và nhận xét 10
1. Khảo sát lỗi sai trong bài viết chính tả ở lớp 10
2. Khảo sát lỗi chính tả ở phiếu bài tập 15
3. Nguyên nhân và một số biện pháp khắc phục 18
3.1. Nguyên nhân 18
3.2. Một số biện pháp khắc phục 19
KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
MẪU BẢNG HỎI 23
PHỤ LỤC 24
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

lại thông tin, không có chữ viết thì không thể có sách, các phát minh, các thành tựu không thể truyền lại.
Âm thanh hay lời nói là cái vỏ vật chất của ngôn ngữ vẫn có những hạn chế nhất định, có giới hạn, không thể truyền đạt rộng rãi và chính xác, lưu giữ lâu dài như chữ viết. Âm thanh bị hạn chế về khoảng cách và thời gian theo kiểu "tam sao thất bản". Chữ viết khắc phục được những điểm trên là phương tiện hoàn hảo để truyền đạt thông tin, lưu giữ thông tin, kích thích sự sáng tạo, là thành quả kỳ diệu, vĩ đại của loài người.
Hiện nay, tiếng Việt dùng hệ chữ viết như ký tự Latin gọi là chữ Quốc Ngữ. Theo tài liệu của những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lúc trước, chữ Quốc Ngữ phát triển từ thế kỷ thứ 17, do công của một nhà truyền giáo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes (1591–1660). Sau cuộc xâm lăng của người Pháp giữa thế kỷ thứ 19, chữ Quốc Ngữ trở nên thịnh hành và hầu như tất cả các văn bản viết đều dùng nó. Trước đó, người Việt dùng hai loại chữ viết là chữ Nho (chữ Hán đọc theo cách Việt Nam – ngôn ngữ hành chính) và chữ Nôm (mô phỏng chữ Nho để viết chữ thuần Việt – ngôn ngữ dân gian).Ngày nay, chữ Nho và chữ Nôm không còn thông dụng ở Việt Nam; chữ Nôm đã bị mai một nhiều
Chữ viết tiếng Việt là chữ viết ghi âm, mỗi một tiếng hay một âm tiết, một hình vị được ghi thành một chữ rời, ranh giới để nhận diện các chữ là khoảng trống (space) giữa các tiếng (âm tiết, hình vị).
Chú ý phân biệt chữ, với cách hiểu là tập hợp chữ viết của một âm tiết (hay một tiếng) như vừa nói ở trên, ví dụ: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", với chữ được hiểu là đơn vị kí hiệu trong một hệ thống chữ (con chữ, chữ cái), ví dụ chữ "a, b, c..." và chữ được hiểu là hệ thống kí hiệu bằng đường nét được đặt ra để ghi lại tiếng nói của con người, ví dụ: chữ quốc ngữ, chữ Nôm, chữ A-rập, chữ Hán, chữ Latinh.
Tiếng Việt có 41 âm vị: 23 âm vị phụ âm và 16 âm vị nguyên âm, 2 âm vị bán nguyên âm. Để ghi lại 41 âm vị này, tiếng Việt dùng 29 chữ cái (con chữ) sau (xếp theo trật tự abc..):
a, ă, â, b, c, d, đ, e, ê, g, h, i, k, l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, v, x, y Ngoài ra, tiếng Việt du nhập thêm 4 chữ cái f, j, w, z để viết các từ ngữ mượn của tiếng nước ngoài bằng phiên âm, và đặc biệt là để viết các thuật ngữ khoa học. Ví dụ: Flôbe (Flaubert), flo-rua (fluorur), juđô (judo), xe jip (jeep), jun (joule), watt, wolfram, Môza (Moza), zero, Zn, v.v.
II. Chính tả và chuẩn chính tả
1. Chính tả
Khái niệm chính tả là một khái niệm được rất nhiều sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.Chính tả” hiểu theo nghĩa thông thường là “ Phép viết đúng” . Chính tả là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Đó là một hệ thống các quy tắc về các âm vị, âm tiết, từ, cách dung dấu câu, cách viết hoa
Như vậy có thể nói rằng: Chính tả bao gồm nhiều vấn đề cụ thể, từ cách viết các âm vị, âm tiết đến cách viết các đơn vị từ, cách dùng lối viết hoa các dấu câu…
Chính tả là cách viết chữ được coi là chuẩn, nó có tính chất bắt buộc đối với toàn thể cộng đồng ngôn ngữ. Sự thống nhất chính tả biểu hiện tính thống nhất của một ngôn ngữ. Chuẩn chính tả, cũng như mọi chuẩn ngôn ngữ khác, không phải là cái gì nhất thành, bất biến. Có những chuẩn cũ đã trở thành lỗi thời, nhường chỗ cho những chuẩn mới ra đời hoặc thay thế nếu nó đáp ứng nhu cầu của đời sống, phù hợp với sự phát triển của ngôn ngữ và được xã hội chấp nhận. Chính tả tiếng Việt cũng không nằm ngoài cái quy luật đó.
Do phát âm của tiếng Việt không thống nhất trong cả nước, phát âm của các miền, các địa phương có những mâu thuẫn khác nhau với chính tả, tạo ra những vấn đề chính tả khác nhau như vấn đề hỏi/ngã đối với miền Nam và phần lớn miền Trung, vấn đề ch-/tr-, s-/x- đối với miền Bắc, v.v.
2. Chuẩn chính tả
Như chúng ta đã biết,chính tả đã được bàn bạc khá nhiều, song cho đến nay tình trạng không thống nhất về chính tả vẫn còn tồn tại trong nhà trường, trên báo chí và toàn xã hội. Vấn đề đặt ra là muốn thống nhất chính tả thì phải có chuẩn chính tả và phải được quy định rõ ràng.
Đặc điểm chính của chuẩn chính tả:
- Đặc điểm đầu tiên của chuẩn chính tả là tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối của nó. Đặc điểm này đòi hỏi người viết bao giờ cũng phải viết đúng chính tả. Chữ viết có thể chưa hợp lí nhưng khi đã được thừa nhận là chuẩn chính tả thì người cầm bút không được tự ý viết khác đi. Ai cũng biết rằng viết "ghế", "ghen" không hợp lí và tiết kiệm bằng "gế", "gen" nhưng chỉ có cách viết thứ nhất mới được coi là đúng chính tả. Vì vậy nói đến chuẩn chính tả là nói đến tính chất pháp lệnh. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lí – không hợp lí, hay – dở mà chỉ có sự phân biệt đúng – sai, không lỗi – lỗi. Đối với chính tả, yêu cầu cao nhất là cách viết thống nhất, thống nhất trong mọi văn bản, mọi người, mọi địa phương.
- Do chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối cho nên nó ít bị thay đổi như các chuẩn mực khác của ngôn ngữ (như chuẩn ngữ âm, chuẩn từ vựng, chuẩn ngữ pháp). Nói cách khác, chuẩn chính tả có tính chất ổn định, tính chất cố hữu khá rõ. Sự tồn tại nhất nhất hàng thế kỉ của nó đã tạo nên ấn tượng về một cái gì "bất di bất dịch", một tâm lí rất bảo thủ. Chính vì thế mặc dù biết rằng cách viết "iên ngỉ" hợp lí hơn nhưng đối với chúng ta nó rất "gai mắt", khó chịu vì trái với cách viết từ bao đời nay. Mặt khác, do tính chất "trường tồn" này mà chính tả thường lạc hậu so với sự phát triển của ngữ âm. Sự mâu thuẫn giữa ngữ âm "hiện đại" và chính tả "cổ hủ" là một trong những nguyên nhân chính làm cho chính tả trở nên rắc rối.
- Ngữ âm phát triển, chính tả không thể giữ mãi tính chất cố hữu của mình mà dần dần cũng có một sự biến động nhất định. Do đó, bên cạnh chuẩn mực chính tả hiện có lại có thể xuất hiện một cách viết mới tồn tại song song với nó, ví dụ: "phẩm zá", "anh zũng" bên cạnh "phẩm giá", "anh dũng", "trau dồi" bên cạnh "trau giồi", "dòng nước" bên cạnh "giòng nước", v.v... tình trạng có nhiều cách viết như vậy đòi hỏi phải tiến hành chuẩn hoá chính tả.
Chương II
KHẢO SÁT THỰC TẾ TÌNH HÌNH MẮC LỖI VỀ PHỤ ÂM ĐẦU TR/CH, S/X, R/D/GI CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
I. Khái quát chung về địa bàn thực tập
1. Huyện Yên Dũng- Bắc Giang
a) Về địa lý, Yên Dũng có núi Nham Biền chạy theo hướng Đông-Tây. Phía Nam giáp tỉnh Bắc Ninh với ranh giới là sông Cầu, phía Đông giáp tỉnh Hải Dương với ranh giới là sông Lục Đầu, phía Bắc giáp huyện Lục Nam và phía Tây giáp thành phố Bắc Giang. Chảy xuyên qua huyện Yên Dũng là con sông Thương uốn lượn cung cấp phù sa cho các xã Tân Tiến, Xuân Phú, Tân Liễu. Tỉnh Bắc Giang nối ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status