Từ khái niệm quân tử tiểu nhân thời Tây Chu đến quân tử, tiểu nhân trong Luận ngữ - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Từ khái niệm quân tử tiểu nhân thời Tây Chu đến quân tử, tiểu nhân trong Luận ngữ



MỤC LỤC
 
Lời nói đầu
Phần mở đầu
Phần thứ nhất : Khổng Tử và Luận ngữ
1. Con người Khổng Tử
2. Tác phẩm Luận ngữ
3. Giới thuyết khái niệm quân tử và tiểu nhân
Phân thứ hai
1. Cấu trúc dân cư và cách hiểu khái niệm quân tử, tiểu nhân trong xã hội Tây Chu
2. Đại biến Xuân Thu, tầng lớp sĩ mất mất đị vị quí tộc
3. Khái niệm quân tử, tiểu nhân trong Luận ngữ
4. Con đường từ khái niệm quân tử tiểu nhân thời Tây Chu đến quân tử, tiểu nhân trong luận ngữ
Phần thứ ba: Thay lời kết.
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

phạm vi báo cáo khoa học của sinh viên, chúng tui đã lựa chọn triển khai đề tài “Từ khái niệm quân tử tiểu nhân thời Tây Chu đến quân tử, tiểu nhân trong Luận ngữ”.
Đây không phải là một vấn đề nhỏ và dễ giải quyết, song chúng tui đặt mục tiêu thông qua việc thực hiện đề tài này sẽ bổ sung thêm được nhiều kinh nghiệm làm khoa học cũng như kiến thức Nho giáo. Chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những hạn chế, nhưng việc hoàn thành báo cáo này cũng đã là một cố gắng lớn của chúng tôi.
2. Kết cấu báo cáo.
Chúng tui chia báo cáo thành 4 phần:
Phần mở đầu: Nếu lý do chọn đề tài và kết cấu báo cáo.
Phần thứ nhất: Không tử và Luận ngữ.
Trong phần này chúng tui trình bày 3 nội dung:
Con người Khổng Tử
Tác phẩm Luận ngữ
Giới thiệu khái niệm quân tử và tiểu nhân.
Phần thứ hai: chúng tui trình bày 4 mục, nhằm đưa ra hình dung về con đường phát triển của cách hiểu về quân tử tiêu nhân từ quan niệm xã hội Tây Chu đến Luận ngữ.
- Cấu trúc dân cư và cách hiểu khái niệm quân tử, tiêu nhân trong xã hội Tây Chu.
- Đại biến Xuân Thu, tấng lớp xĩ mất địa vị quý tộc.
- Khái niệm quân tử, tiểu nhân trong Luận ngữ.
- Con đường từ khái niệm quân tử tiểu nhân thời Tây Chu đến quân tử, tiểu nhân trong Luận ngữ.
Phần thứ ba: Thay lời kết.
PHẦN THỨ NHẤT
KHỔNG TỬ VÀ LUẬN NGỮ
1. Khổng tử.
Khổng Tử (551 - 479tr.CN) người nước Lỗ, dòng dõi quí tộc sa sút. Bố mất sớm, thuở nhỏ sống cùng kiệt khổ, nên gần gũi với tầng lớp bình dân. Khổng Tử tính tình trầm lặng, ham học hỏi, từ nhỏ thích chơi những trò cúng tế, tỏ ra có thiên hướng về lễ. Lớn lên rất thích tìm hiểu thi, thư, lễ, nhạc, học thứ gì cũng đều cặn kẽ, đến nơi đến chốn và rất xuất sắc.
Hoàn cảnh không may của gia đình, bên cạnh đó là bối cảnh xã hội cuối thời Xuân Thu nhiều động loạn, lễ hoại nhạc băng, quyền lực của Thiên tử nhà Chu giảm sút, nhiều nước chư hầu mạnh lên, tranh giành đất đaim lấn lướt Thiên tử, chiến tranh xảy ra liên miên không dứt, đã có những tác động lớn đến ông, Khổng Tử muốn đem những sở học của mình ổn định lại thế cuộc, xây dựng lại một xã hội lễ nhạc Tây Chu. Nhưng bằng con đường nào?
Trong xã hội Tây Chu, trật tự được duy trì bằng sức mạnh của Vu giáo, bằng quyền uy chế ước ngoại lai của Lễ. Con người không tồn tại trong mối quan hệ xã hội, nghĩa là giữa con người với con người, mà chỉ có quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trên cùng thì có Thượng đế, lại có lễ biện biệt đẳng cấp, giá trị con người đồng nhất với một địa vị mà nó chiếm giữ. Nhưng đến khi hệ giá trị đó bắt đầu bị lung lay, cơ cấu xã hội bắt đầu có biến chuyển, tầng lớp địa chủ mới hình thành mạnh lên, giai cấp quí tộc yếu thế dần thì Lễ cũng mất quyền uy. Trước đây, con người được nhận một sự bảo trợ vô điều kiện từ trời, nhưng nay thì vị thần tối linh ấy cũngđã bất lực, số phận con người cảm giác thật bấp bênh, người ta cần một hệ giá trị khác phù hợp hơn để mà bấu cìu. Xu hướng tư tưởng đều bứt ra khỏi Vu Giáo không còn thiêng nữa. Không nằm ra ngoài xu hướng trên, Khổng Tử đi tìm một con đường mới: con đường nhân tâm. Không bàn đến quái lực, loạn, thần. .. Nho giáo dành trọn quan tâm vào ứng xử.
Xây dựng phạm trù “Nhân”, Khổng Từ muốn dùng một ước thúc nội tại để nhằm đạt đến hiệu quả của một ước thúc ngoại tại. Điều này quan trọng.
Nho giáo đã đem đến cuộc sống một triết học gắn liền với nhân sinh, để giải quyết một vấn đề về xã hội nó đã trình bày một lối sống. Lý Trạch Hậu gọi đó là “lý tính thực tiễn” của Nho giáo. Lâm Ngữ Đường gọi Nho giáo là “triết học cận nhân tình” và gọi Khổng Từ là “nghệ thuật gia về lối sống”.
Tuy nhiên, học thuyết của ông không được ai sử dụng.
Cuối đời, Khổng Tử để tâm dạy học, san định kinh sách, đem chí hướng một đời cứu thế tôn Chu chưa toại nguyện mà chỉnh đốn sắp xếp lại Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, lại dựa vào bộ sử nước Lỗ mà làm kinh Xuân Thu, bàn chuyện thị phi của hơn hai trăm năm, ngụ ý khen chê để tỏ nền Lễ chính. Đây là một cuộc tổng kết văn hoá có ảnh hưởng to lớn và quan trọng vào bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa. Nhận xét về cuộc tổng kết văn hoá này, học giả Liễu Di Chinh - “Văn hoá sử Trung Quốc” - Nhà xuất bản Đại Bách Khoa toàn thư Trung Quốc - 1998, viết: “Không có Khổng Tử thì không có văn hoá Trung Quốc. Ông đã truyền bá nền văn hoá trước ông hàng ngàn năm và sáng lập nên văn hoá sau ông hàng ngàn năm”(1).
2. Luận ngữ.
“Luận ngữ” có nghĩa đen là những lời bàn bạc trao đổi. Đúng với tên gọi của nó, Luận ngữ ghi lại lời dạy của Khổng Tử về nhiều vấn đề như luân lí, chính trị, học thuật... ngoài ra sách còn chép cả những trao đổi của đám cao đệ như Tăng Sâm, Nhan Uyên, Tử Lộ... Khổng Tử không viết Luận ngữ, mà sách do các học trò sưu tầm, biên soạn, có khi chủ yếu là sau khi Khổng Tử đã mất.
Khổng Tử có khoảng hơn 14 năm du thuyền các nước, quyết tâm cải tạo xã hội của ông đều thể hiện cả trong Luận ngữ. Trên thực tế, tư tưởng Đại học, Trung dung và cả Mạnh Tử về cơ bản đều được xây dựng trên cơ sở Luận ngữ.
Sách gồm 20 thiên, được chia thành hai quyển thượng và hạ, mỗi thiên lấy hai chữ đầu để đặt tên. Do tính chất ghi chép trực tiếp của nó, Luận ngữ được coi là tài liệu quan trọng nhất để nghiên cứu về Khổng Tử và Nho giáo nguyên thuỷ.
3. Khái niệm quân tử và tiểu nhân.
Học thuyết Nho gia đặc biệt chú ý đến vấn đề quân tử và tiểu nhân. Trong tác phẩm Luận ngữ “quân tử” được nhắc đến 104 lần, “tiểu nhân” được nhắc đến 22 lần. Sách “Almanach những nền văn minh thế giới” - Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin - Hà Nội - 1999, viết: “Sách Luận ngữ có thể coi như là cuốn sách dạy người ta cái Đạo làm người quân tử một cách thực tiễn...” (tr.1402).
Nho giáo đã cố gắng xây dựng hình mẫu lý tưởng người quân tử, đặt trong mối quan hệ đối lập, mâu thuẫn với kẻ tiểu nhân. Người ta gọi Nho giáo là học thuyết quân tử, cái này có lý do của nó, ta sẽ nói đến sau, còn ở đây điều đó cho thấy rằng, vấn đề quân tử và tiểu nhân gắn liền với nội dung học thuyết Nho giáo, và tìm hiểu nội hàm hai khái niệm này là công việc không thể không quan tâm. Trong thực tế, chuyện này không có gì mới.
Sào Nam Phan Bội Châu trong “Khổng học đăng”, đã dành một chương để bàn về “Phương pháp biện biệt quân tử với tiểu nhân” (Chương XIII - Khổng học đăng thượng thiên), xét 14 câu trong Luận ngữ mà quân tử và tiểu nhân “so đọ cung nha”(2), qua đó đưa ra cách nhìn nhận thế nào là quân tử, thế nào là tiểu nhân.
Nguyễn Hiến Lê trong “Đại cương triết học Trung Quốc” - quyển hạ - phần V - Chương V, dẫn lại trong “Khổng Tử” - Nhà xuất bản Văn hoá - 1996, tr.204 - tr.205, viết:
“Cứ xét trong Luận ngữ thì Khổng Tử dùng tiếng quân tử theo ba nghĩa: thuần trỏ địa vị, thuần trỏ tư cách, vừa trỏ địa vị vừa trỏ tư cách”.
Có một điều, hai từ quân tử và tiểu nhân khô...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status