Ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống xã hội ở nước ta và đồng bào dân tộc khmer - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống xã hội ở nước ta và đồng bào dân tộc khmer



MỤC LỤC
 
Mục lục . Trang 1
Mở đầu . .Trang 2
Chương 1: Khái quát về Phật giáo và quá trình phát triển Phật giáo ở Việt Nam . Trang 6
1. Nguồn gốc ra đời . .Trang 6
2. Lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo .Trang 6
Chương 2: Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa - xã hội và con người Việt Nam nói chung và Trà Vinh nói riêng . . Trang 8
1. Phật giáo với đời sống văn hóa - xã hội.Trang 8
2. Phật giáo với đời sống văn hóa - xã hội.Trang 13
3. Ảnh hưởng đối với truyền thống văn hóa .Trang 14
4. Ảnh hưởng đối với văn hóa lễ hội.Trang 17
5. Ảnh hưởng đối với phong tục tập quán.Trang 21
6. Tính cộng đồng trong sinh hoạt tín ngưỡng.Trang 23
Kết luận.Trang 29
Tài liệu tham khảo.Trang 30
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

iữa vua và dân, một lối sống khá bình đẳng giữa cha và con, bình đẳng giữa vợ và chồng. Bởi vậy người Việt cổ khó lòng chấp nhận nổi trật tự “ Cương thường “ của Nho gia. Nhưng người Việt bình dân cũng khó lòng “ cãi lý” nổi với những nho sĩ, Nho gia “Bụng đầy chữ nghĩa”. Họ chỉ còn biết dựa vào các sư sãi vừa có chữ nghĩa vừa bảo vệ họ, Sao chăng nữa, đạo Phật đã chủ trương bình đẳng, Phật là đức Phật đã thành, chúng sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình đẳng trước Phật. Nếu như Nho giáo Việt Nam dựng ra cái Đình ở làng quê với một “ tiểu triều đình” trọng nam khinh nữ thì dân quê Việt Nam dựng và bảo vệ chùa, chùa làng của dân gian và trước hết là giới đàn bà được loại khỏi sinh hoạt ở Đình có thể sinh hoạt thậm chí trở thành lực lượng quan trọng trong sinh hoạt chùa làng.
Mặt khác, điều kiện xã hội con người xưa kia cũng mở rộng cho Phật giáo dễ dàng du nhập so với Trung Quốc. Phật giáo khi du nhập Trung Quốc đã bị phản ứng mãnh liệt của tâm lý dân tộc, truyền thống văn hoá, đặc biệt là ý thức hệ Nho giáo. Trong khi đó Phật giáo vào Việt Nam tương đối thuận lợi, phát triển nhanh chóng, hầu như không bị phản ứng sâu sắc trừ một số ít Nho sỹ thời Trần, Hồ. Xã hội Việt Nam khi tiếp nhận Phật giáo từ ấn Độ hay Trung Quốc sang chưa có sự phân chia gay gắt và đối kháng kịch liệt, mối quan hệ của Tông tộc gia đình chưa chịu ảnh hưởng của lý thuyết Tam cương nặng nề. Điều này khiến Phật giáo khi thâm nhập không bị phản đối. Song lý do chính có lẽ là do Phật gia khi vào đây chưa gây một đảo lộn, một biến cách, không phủ nhận những giá trị tinh thần, phong tục tập quán của từng người, từng gia đình, của xã hội. Vì vậy người Việt bình dân đã khá dễ dàng hấp thụ cái triết lý nhân sinh quan của Đạo Phật, không biết có quá không nhưng một nhà Phật học của Việt Nam đã nói có phần đúng rằng ở thời Bắc thuộc Đạo Phật đã thấm vào lòng người dân Việt như nước thấm vào lòng đất.
Dòng Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài trong xã hội Việt Nam là Thiền Tông. Thiền Tông có một số đặc điểm mà dân gian dễ chấp nhận.
+ Phật giáo Thiền Tông ít bàn về lý luận mà chuyển sang tông phong phong cách tu hành. Thiền Tông chủ trương “ Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành phật, tức tâm thị Phật”. Như vậy chủ chương của Thiền tông là lôi kéo thế giới Tây Phương cực lạc về trần thế, đặt nó trong lòng con người, tâm thị Phật.
+ Thiền tông chủ trương lao động theo thanh qui của Bách Trượng ( 720-814) : “ Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” ( một ngày không làm, một ngày không ăn) và lấy việc phục vụ xã hội làm điều kiện tu hành. Điều này khiến cho các tăng nhân không phải là một tầng lớn ăn bám xã hội.
Thiền tông lại chấp nhận sự bần khổ coi sự chịu đựng bần khổ cũng là cách tu hành.
Chấp nhận bần khổ và lao động là điều khiến Thiền Tông dễ đi vào nông thôn, dễ bám vào làng xã, đứng được trong làng quê.
+ Thiền tông có khi còn đi xa hơn nữa, cho phép sát sinh, giết người, giết một người mà cứu được muôn người quả là điều phúc. Phật tử không hoàn toàn là người bị động mà có thể vùng lên chống áp bức bóc lột. Do vậy ở Việt Nam thời phong kiến cũng có nhiều cuộc nổi dậy giành chính quyền do nhà sư lãnh đạo.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng trong đời sống dân gian cổ truyền. ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm mền hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Bao nhiêu câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở vị trí thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nông thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Nhà Phật đâu có sợ “ thịnh suy” mà “thịnh” theo cái nghĩa được nhà nước quân chủ Lý Trần nâng đỡ bảo trợ .... Cũng chính vì nó Phật gia được chính quyền quá ưu ái mà sinh hoạt nhà chùa trở nên xa hoa, sa đoạ, trái ngược với đời sống Đức Phật chối bỏ sinh hoạt cung đình, trái ngược với giới luât Bách Trượng tự lao động mà sinh sống giản dị để dự bị giờ phút “ đến ngộ thành Phật”. “Suy” theo nghĩa cơ bản mất sự ủng hộ của chính quyền. Nhưng suy ở thượng tầng thì lại toả ra dân chúng ở làng quê ở các cơ sở hạ tầng, nếu đừng quá khắt khe và cứng độ trong nguyên lý thì có thể khái quát rằng Phật giáo Lý Trần là Phật giáo quý tộc, còn Phật giáo Lê - Nguyên về sau là Phật giáo dân gian. Từ chỗ trở thành dân tộc từ trước, sau thế kỷ X, Phật giáo Việt Nam đã trở thành dân gian, nhân gian - hay là đã được dân gian hoá sau thế kỷ XV.
Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.
2. Phật giáo với đời sống văn hóa xã hội Việt Nam ngày nay.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, ... ngoài ba tôn giáo chính từ xưa. Nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội và tinh thần người Việt Nam. Nhìn vào đời sống văn hóa xã hội và tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua nhiều biểu hiện Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. ở nhiều vùng đất nước số người theo Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, số sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng.
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày sóc, cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status