Phạm trù nội động/ ngoại động trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh) - pdf 16

Download miễn phí Luận văn Phạm trù nội động/ ngoại động trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)



Dựa vào khảnăng vắng mặt của giới từtrong cấu trúc thứhai trên đây, một sốtác giảcho rằng các
VT nhóm này là những VT có hai BN trực tiếp ([57, tr.167]; [100, tr.251]). Quan niệm của các tác giả trên, mặc dù có nhiều khác biệt so với phần lớn quan niệm của các nhà ngữpháp khác – vốn coi đây chỉ là một dạng cải biến của cấu trúc thứnhất – có ưu điểm quan trọng là triệt đểvận dụng những tiêu chí hình thức (bất kì BN nào không có giới từphân cách với VT đều phải coi là BN trực tiếp). Vấn đềnan giải là giữa các VT nhóm này và BN thứnhất có thểxen một giới từ– một dịbiệt đáng kểnếu so với cấu trúc tương tựtrong một sốngôn ngữkhác, chẳng hạn, tiếng Anh (x. chương 3). Vì thế, đểcó thểsửdụng tiêu chí hình thức một cách hiệu quả, cần tìm một cách lập thức chính xác hơn.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

nhận chức năng “nối” nhưng xét các trường hợp sử dụng cơ
bản của từ này chúng ta thấy vai trò của nó rất khác với VT to be trong tiếng Anh.
Cho dù to be trong một số cách dùng có thể tương đương với vài VT khác (như become ‘trở nên’,
intent ‘có ý định’, exist ‘tồn tại’, v.v) nhưng cách dùng trước hết và chủ yếu vẫn là để nối chủ ngữ với
các bộ phận khác trong câu và dùng để thể hiện các phạm trù ngữ pháp (thời, thể, dạng…). Trong khi
23 Theo “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê cb, 2006, tr.706), nhau là danh từ chỉ dùng làm bổ ngữ để biểu thị quan hệ tác động qua lại
giữa các bên. Chúng tui xem nhau là một đại từ tương hỗ. Tuy nhiên điều này không ảnh hưởng gì đến tư cách NgĐ của VT chi phối
nó.
đó là không đảm nhận những nhiệm vụ này hay đảm nhận với tư cách một yếu tố hoàn toàn tuỳ ý24;
cách dùng thường xuyên, chủ yếu của là lại thường thể hiện đầy đủ tư cách của một VT ngôn liệu.
55. a. Anh ta là trưởng phòng nhân sự.
a'. Anh ta đã là trưởng phòng nhân sự rồi.
b. Anh ta là cánh chim đầu đàn của đơn vị này.
c. Trước tòa biệt thự là một dòng suối.
Là trong 55a hoàn toàn tương đương với “đảm nhiệm”; dùng khác một chút như trong (a’), là
tương đương với “trở thành”; trong (b), là có vai trò định tính về chủ thể, nó tương đương với “có
phẩm chất”, “xứng đáng”; trong (c), là lại là một VT tồn tại (cùng nhóm với có, còn, tồn tại, hiện ra).
Một khi chúng ta đã xem các VT đảm nhiệm, trở thành, xứng đáng và các VT thuộc nhóm VT tồn tại
là những VT ngôn liệu thì không lí gì gạt bỏ là ra khỏi danh sách này. Việc so sánh trên, dù sao cũng
chủ yếu dựa trên tiêu chí nghĩa. Tư cách NgĐ của là chính ở chỗ sự cần thiết phải có mặt của nó trong
cấu trúc, và sự cần thiết phải có mặt của ngữ đoạn danh từ phía sau nó. Trong các ví dụ trên, nếu lược
bỏ là, hay lược bỏ các ngữ đoạn danh từ phía sau là, chúng ta sẽ có những câu không được chấp nhận.
Đây chính là lí do để có thể xếp là vào nhóm VT NgĐ. Tuy nhiên vì ngữ đoạn làm BN đánh giá là thường
có cùng sở chỉ hay thường thể hiện một số đặc điểm, phẩm chất gắn với chính chủ thể chứ không phải
là một đối tượng/ thực thể khác nên chúng tui xếp là vào một nhóm riêng nằm trong số những VT NgĐ
kém điển hình.
Bàn về cương vị của các trợ động từ (auxiliaries) trong các ngôn ngữ trên thế giới, S. Steele
(1978), S. Steele, Akmajian, Wasow (1979) cho rằng các trợ từ là một phạm trù cú pháp phổ quát
nhưng các tác giả giải thích tính phổ quát theo cái nghĩa chúng là cái gì đó ‘có sẵn’ trong các ngôn ngữ
loài người chứ không phải là cái cần thiết phải xảy ra trong các ngôn ngữ loài người. W. Croft (1991),
đồng ý với một số tác giả khác, cho rằng các trợ động từ cần giải thích như một phạm trù trung gian về
mặt lịch đại, mà ở trạng thái trước kia (hay trong trạng thái hiện nay của một số ngôn ngữ) chúng vốn
là các động từ, hay trạng từ đầy đủ [133, tr.142]. Điều này có lẽ rất đúng với tiếng Việt khi mà là
đang còn giữ rất nhiều đặc tính của một VT, và việc thể hiện các các ý nghĩa thời, thể, v.v. của tiếng
Việt không phải dựa trên các “trợ động từ” mà dựa vào chính các nhóm từ khác và dựa vào cách tổ
chức các thành tố cú pháp.
- Vị từ trạng thái, tính chất
Một số VT chỉ trạng thái, tính chất (phần lớn trùng với các tính từ theo cách phân loại truyền
thống) có cách dùng NgĐ. BN của chúng lúc này chính là một tham tố mang vai Phạm vi (range) theo
24 Không chỉ tiếng Việt mà nhiều ngôn ngữ khác không cần thiết phải có VT nối, thậm chí là không có (chẳng hạn, tiếng Tagalog);
hay có từ nối nhưng không phải là VT (chẳng hạn, tiếng Hausa) [193, tr. 11].
cách hiểu của M. Halliday.
56. a. Lan đỏ mặt […] (Hồn bướm mơ tiên, Khái Hưng)
b. [...] chứng tỏ chủ nhà không cầu kỳ màu mè, rất giàu tính thực tiễn!
(Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường)
c. Điền dặn tui […] đừng mặc áo quá rộng cổ […].
(Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư)
d. Khi thấy đã chậm giờ, ông lý trưởng nghiến răng nói [...].
(Tinh thần thể dục, Nguyễn Công Hoan)
Trong câu (a), đỏ ảnh hưởng đến Lan nhưng không phải ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể mà chỉ
một phạm vi mà thôi (mặt); ở câu (b), tính thực tiễn lúc này chỉ một phương diện, một nét phẩm chất
của chủ thể và VT giàu cho ta biết về mức độ, tính chất đó như thế nào; trong câu (c), rộng chỉ là đặc
tính chỉ áp dụng với cổ mà thôi; tương tự, chậm (muộn) trong (d) chỉ nói về giờ giấc.
Do BN chỉ đóng vai trò chỉ ra phạm vi ảnh hưởng đến chủ thể mà nghĩa của VT thể hiện chứ
không phải chỉ một thực thể khác, do đó chúng tui xếp VT trong những kiểu câu này là VT NgĐ kém
điển hình.
Các VT trạng thái cũng có thể có BN là một (ngữ) VT. Lúc này đặc tính của VT trạng thái cũng
tác động vào tính chất của (ngữ) VT đứng sau nó.
57. a. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững […].
(Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân)
b. Thằng bé này chậm nói.
c. Thánh mẫu bèn bảo Nguyễn Kiêm một mặt báo cho bọn quân sĩ hãy chậm khởi sự lại vài ngày.
(Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái)
Nói chung các từ in đậm trong ví dụ trên không thể được hiểu là phó từ được. Nếu trong câu (a)
khó giữ thiên lương có thể tạm xem là gần nghĩa với giữ thiên lương khó thì trong câu (b) chậm nói
hoàn toàn không thể xem là tương đương với nói chậm; tương tự, chậm khởi sự (chưa vội khởi sự)
không thể coi là tương đương với khởi sự chậm (bắt đầu công việc một cách từ từ). Các câu trong ví dụ
trên hướng người ta đến đặc tính của chủ thể, đến phạm vi áp dụng của đặc tính đó lên VT được đề cập
ở BN chứ không phải hướng tới các hành động.
Một điểm cần lưu ý là cách dùng NgĐ của những VT nhóm này chỉ là cách dùng phái sinh, cách
dùng cơ bản (cách dùng mà người bản ngữ nghĩ đến trước tiên) của chúng vẫn chính là cách dùng NĐ.
Khả năng mang BN của ‘tính từ’ đã được nhiều tác giả đề cập tới. Chẳng hạn, Nguyễn Kim Thản
[81] đã bàn tới một số cấu trúc ngữ đoạn tính từ (tr. 157-162), Đinh Văn Đức [25] đề cập tới các thành
tố phụ có tính chất ‘thực’ sau tính từ (tr. 164-165), Diệp Quang Ban [4] cũng bàn tới các thực từ đứng
sau tính từ và cho rằng xu thế chung rất giống với thành phần đứng sau ‘động từ’ (tr. 104-105), v.v.
2.2. CHUYỂN ĐỔI DIỄN TRỊ VÀ HIỆN TƯỢNG VỊ TỪ CÓ HAI CÁCH DÙNG TRONG
TIẾNG VIỆT
Cũng như trong nhiều ngôn ngữ khác, hiện tượng VT có hai cách dùng NĐ và NgĐ (từ nay, gọi là
VT có hai cách dùng) cũng tồn tại trong tiếng Việt. Hơn thế, hiện tượng này trong tiếng Việt còn tồn tại
với sự phong phú cả về số lượng và kiểu dạng. Những biểu hiện bề mặt như vừa trình bày (VT có hai
cách dùng) có nguồn gốc sâu xa với hiện tượng bề sâu là sự chuyển đổi diễn trị (valency change).
Chuyển đổi diễn trị là hiện tượng một VT có thể tham gia vào những cấu trúc với số lượng diễn tố khác
nhau. Sự thay đổi số lư
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status