Một số hiểu biết về văn học so sánh - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Một số hiểu biết về văn học so sánh



Đứng trước “Truyền Kiều”, người viết hiểu rằng mình đang đứng trước một kiệt tác của văn học Việt Nam và thế giới. Nhưng từ khi được học và nghiên cứu “Truyền Kiều”, người viết không khi nào hết những băn khoăn. Nguyễn Du chuyển thể “Kim Vân Kiều truyện” từ văn xuôi sang thơ, tác giả hầu như không bỏ qua một nhân vật nào, kể cả nhân vật phụ. Thậm chí cả chi tiết lầu xanh “bảy chữ, tám nghề”, Nguyễn Du cũng không để sót. Điều gì đã biến “Truyền Kiều” trở thành một kiệt tác, tốn biết bao giấy mực của hậu thế, làm thành cả chuỗi “vệ tinh” xung quanh nó như bói Kiều, vịnh Kiều ? Trong khuôn khổ của một đề tài nhỏ, người viết xin so sánh giữa nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân và “Truyền Kiều” của Nguyễn Du thông qua đoạn trích “Thúy Kiều gặp Kim Trọng” để thấy được sự sáng tạo ngôn ngữ thơ ca, cách biểu đạt tinh tế của thi nhân Việt Nam.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
---------------
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN: VĂN HỌC SO SÁNH
Học viên thực hiện : Phạm Thị Hương
Lớp : K51 Cao học Văn
Hà Nội -2007
MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ VĂN HỌC SO SÁNH
Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, xã hội phương Tây giai cấp tư sản phát triển lên đến đỉnh cao. Xã hội loài người chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản. Xã hội tư bản đòi hỏi sự giao lưu về khoa học kỹ thuật, văn hóa trong đó có sự giao lưu văn học giữa các nước. Đó chính là điều kiện để bộ môn văn học so sánh ra đời, đánh dấu bằng sự kiện thành lập tổ bộ môn Văn học so sánh tại Đại học Lyon (Pháp) vào năm 1896.
Trước tiên, chúng ta cần khẳng định văn học so sánh không phải là so sánh văn học. Bởi lẽ so sánh là một thao tác, một thủ pháp. So sánh văn học là phương pháp của tất cả các ngành nghiên cứu văn học, không phải riêng của văn học so sánh.
Văn học so sánh là một bộ môn trong văn học sử, xuất hiện do những điều kiện lịch sử cụ thể, do sự phân công lao động trong ngành nghiên cứu văn học. Văn học so sánh hội tụ đầy đủ các yếu tố để trở thành một bộ môn độc lập. Nó có đối tượng nghiên cứu riêng, mục đích và phương pháp luận riêng.
1. Đối tượng nghiên cứu của văn học so sánh:
Là bộ môn trong văn học sử nghiên cứu các mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc (hay văn học quốc gia) nên chúng ta phải chú ý mối quan hệ giữa hiện tượng văn học của văn học dân tộc không phải là đối tượng của văn học so sánh. Nó chỉ là so sánh văn học mà thôi. Đối tượng của văn học so sánh xuất hiện theo dòng lịch sử:
- Văn học so sánh nghiên cứu các mối quan hệ trực tiếp (kéo dài gần thế kỷ) từ đó nảy sinh nhiều vấn đề chưa thỏa đáng. Đó là việc xuất hiện sự phân biệt giữa các nền văn học lớn đối với các nền văn học nhược tiểu, coi văn học thế giới là văn học của các quốc gia có nền văn học lớn.
- Văn học so sánh nghiên cứu các hiện tượng tương đồng từ đó phát hiện ra quy luật phát triển văn học, những quy luật chung chi phối sự phát triển của văn học dân tộc và cả những hiện tượng đặc thù của mỗi nền văn học dân tộc, do đó đưa văn học so sánh thoát khỏi vòng luẩn quẩn khi chỉ đi vào nghiên cứu các mối quan hệ trực tiếp. Văn học so sánh nhờ thế mà phát triển mạnh, mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới, không mâu thuẫn với mục đích của văn học so sánh.
- Văn học so sánh nghiên cứu những tính chất, yếu tố đặc thù của các nền ch dân tộc được xác định qua so sánh. Ví dụ như khi nói văn học trung đại Việt Nam là bản sao của văn học trung đại Trung Quốc, ta đi tìm hiểu điểm riêng của văn học trung đại Việt Nam từ đó có thể khẳng định văn học trung đại Việt Nam là một nền văn học riêng, không phải là bản sao của văn học trung đại Trung Quốc.
2. Mục đích của văn học so sánh.
Có hai mục đích sau:
- So sánh các nền văn học dân tộc để tìm ra tính quy luật phát triển của văn học, phục vụ cho việc nghiên cứu văn học thế giới.
- Chứng minh cho tính đặc thù của các nền cho dân tộc.
Như vậy, mục đích của văn học so sánh đã đề cập đến cặp phạm trù cái chung, cái riêng trong văn học, cụ thể là mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Cái chung nằm trong cái riêng. Cái riêng bao gồm cái chung và cái đặc thù. Mối quan hệ này luôn luôn vận động, phát triển cái chung phải dựa trên cái riêng. Không thể lấy một cái riêng để áp đặt cho những cái riêng khác, cũng không thể lấy tiêu chuẩn văn học của một dân tộc để áp đặt cho các nền văn học dân tộc khác.
3. Phương pháp luận văn học so sánh.
Phương pháp luận là khoa học nghiên cứu về các nguyên tắc chỉ đạo công việc thực hành khoa học và nghiên cứu các phương pháp thực hành khoa học đó. Phương pháp luận đồng nghĩa với tập hợp các phương pháp. Trường bao quát của phương pháp luận đi từ các nguyên tắc đến các phương pháp, kỹ thuật thao tác và quy cách thực hiện một công trình khoa học. Bất cứ khâu nào trong này cũng có thể gọi là một vấn đề thuộc phương pháp luận.
Phương pháp là đối tượng chính của phương pháp luận, là cách thức dùng nghiên cứu đối tượng để đạt đến hiệu quả. Phương pháp có một vị trí độc lập tương đối, là tài sản chung của mọi môn khoa học và mọi ngành nghiên cứu. Không có phương pháp nào chiếm vị trí độc tôn so với các phương pháp khác. Vì vậy, khi xây dựng một đối tượng nghiên cứu và áp dụng các phương pháp để nghiên cứu đối tượng ta cần căn cứ vào tính chất của đối tượng và mục đích nghiên cứu để chọn phương pháp chính, phụ.
Phương pháp luận nghiên cứu văn học là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu các nguyên tắc chỉ đạo việc thực hành trong nghiên cứu văn học.
Phương pháp luận văn học so sánh thuộc cấp độ của phương pháp luận chuyên biệt, chịu sự chi phối của phương pháp luận nghiên cứu văn học, trên nữa là phương pháp luận nghiên cứu khoa học chung.
Văn học so sánh không lấy so sánh làm của riêng mà thu nạp tất cả các phương pháp khác và vận dụng dưới sự chỉ đạo của phương pháp luận của nó.
Với mục đích, đối tượng và phương pháp luận riêng, văn học so sánh đã hội tủ đầy đủ các yếu tố để trở thành một bộ môn riêng. Áp dụng văn học so sánh vào Việt Nam đã mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới cho những người quan tâm đến văn học nước nhà.
***
NGUYỄN DU VÀ SÁNG TẠO TRONG MỘT
TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU
Đứng trước “Truyền Kiều”, người viết hiểu rằng mình đang đứng trước một kiệt tác của văn học Việt Nam và thế giới. Nhưng từ khi được học và nghiên cứu “Truyền Kiều”, người viết không khi nào hết những băn khoăn. Nguyễn Du chuyển thể “Kim Vân Kiều truyện” từ văn xuôi sang thơ, tác giả hầu như không bỏ qua một nhân vật nào, kể cả nhân vật phụ. Thậm chí cả chi tiết lầu xanh “bảy chữ, tám nghề”, Nguyễn Du cũng không để sót. Điều gì đã biến “Truyền Kiều” trở thành một kiệt tác, tốn biết bao giấy mực của hậu thế, làm thành cả chuỗi “vệ tinh” xung quanh nó như bói Kiều, vịnh Kiều …? Trong khuôn khổ của một đề tài nhỏ, người viết xin so sánh giữa nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân và “Truyền Kiều” của Nguyễn Du thông qua đoạn trích “Thúy Kiều gặp Kim Trọng” để thấy được sự sáng tạo ngôn ngữ thơ ca, cách biểu đạt tinh tế của thi nhân Việt Nam.
Người viết đã được tiếp cận với “Một số nhận xét về “Kim Vân Kiều truyện” với “Đoạn trường tân thanh” của ba tác giả Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan và Lô Úy Thư. Ở bai này các tác giả đã đặt ra một vấn đề trong khi so sánh nguyên tác và chuyển thể: “Đoạn trường tân thanh” được sáng tác theo “Kim Vân Kiều truyện”, vì vậy, phần nào là phần sáng tạo của Nguyễn Du, phần nào là theo ý của Thanh Tâm Tài Nhân? Để giải quyết vấn đề này, theo ý của tác giả, ta cần dựa trên sự so sánh đối chiếu hai tác phẩm để rút ra số liệu cụ thể mới định giá được. Tác giả đã thống kê được các số liệu sau: trong 3254 câu Kiều có 1313 câu t...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status