Đo tật khúc xạ - pdf 17

Download miễn phí Đo tật khúc xạ



Kính trụ là những kính có một mặt phẳng và một mặt hình trụ. Một kính trụ có thể coi như một sự chồng khít của rất nhiều thấu kính hội tụ (kính trụ hội tụ) hay phân kỳ (kính trụ phân kỳ).
Tính chất
Một chùm sáng song song chiếu thẳng góc vào mặt phẳng của kính trụ, sau khi qua kính trụ sẽ tạo thành một tiêu tuyến song song với trục của kính trụ.
Mắt nhìn qua một kính trụ: một vật vuông ABCD được nhìn qua một kính trụ đứng dọc; nhìn như rộng ra nếu qua một kính trụ hội tụ và nhìn như hẹp lại nếu qua kính trụ phân kỳ. Nếu vật là tròn, nhìn hình sẽ là bầu dục.
Muốn trung hòa tác dụng của một kính trụ:
Có 2 phương pháp:
- Gắn vào một kính trụ có cùng công suất nhưng khác dấu, có trụ song song (hệ thống này trở thành một tấm phẳng).
- Gắn vào một kính trụ có cùng dấu và công suất, trục thẳng góc (hệ thống trở thành một kính cầu). Vấn đề này có tầm quan trọng hàng đầu để điều chỉnh loạn thị.
 
Trong một hệ cầu - trụ nghĩa là tạo nên bởi sự phối hợp một kính trụ và một kính cầu, những kinh tuyến không cùng một độ cong và do đó không cùng một công suất. Người ta gọi “những kinh tuyến chính” là những kinh tuyến thẳng góc với nhau, trong đó độ cong, có cái tối đa, có cái tối thiểu.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Ánh sáng càng mạnh, thị lực càng tăng, nhưng đến một mức tối đa thì không tăng nữa. Đo thị lực rất quan trọng, vì nó cho phép đánh giá chức năng chủ yếu của mắt. Bởi vậy nó rất cần thiết trong việc chẩn đoán, theo dõi các bệnh về mắt, đánh giá khả năng của mắt đối với từng loại lao động, từng loại công tác… 3.2 Lực điều tiết: Đối với con mắt bình thường trên người trẻ tuổi thì khi nhìn một vật ở xa (viễn điểm, đối với mắt là 5 mét trở lên) thấy rõ vì ảnh của vật hiện đúng trên võng mạc. Nếu vật cứ tiến lại gần, lẽ ra người đó sẽ nhìn mờ đi vì ảnh tiến ra sau võng mạc, nhưng thực tế nhìn vẫn rõ và còn rõ hơn nữa do vật càng gần ảnh càng to. Có hiện tượng trên là nhờ vào sự điều tiết của thể thủy tinh. Nhưng nếu vật cứ tiến gần đến sát mắt thì một lúc nào đó mắt nhìn không rõ vật nữa: ảnh đã ra sau võng mạc, mắt đã điều tiết tối đa. Điểm gần nhất mà mắt còn thấy rõ gọi là cận điểm. Khoảng không gian từ cận điểm đến viễn điểm gọi là quãng đường điều tiết là khoảng mà mắt nhìn rõ. Khả năng điều tiết tối đa của mắt còn gọi là biên độ điều tiết. Càng lớn tuổi, khả năng điều tiết càng giảm. Độ 40 tuổi, khả năng này giảm đi rất nhiều (lão thị) và mất hẳn ở tuổi 60. Ở những người này nếu không đeo kính lão thì không thể nhìn gần được. 1. Mắt chính thị trên người 20 tuổi với biên độ điều tiết là 10D. 2. Mắt cận thị 2D trên người 20 tuổi với biên độ điều tiết là 10D. 3. Mắt viễn thị 2D trên người 20 tuổi với biên độ điều tiết là 10D. 3.3 Hệ thống khúc xạ của mắt Tia sáng muốn lọt vào võng mạc, phải lần lượt đi qua giác mạc, thủy dịch, thể dịch, thể thủy tinh và thể pha lê. Giác mạc và thể thủy tinh hợp thành hệ thống khúc xạ của mắt với công suất qui tụ khoảng 60 điốp (điốp là đơn vị khúc xạ viết tắt là D), với quang tâm N và trục thị giác XM. 4. NHỮNG BẤT THƯỜNG CỦA KHÚC XẠ Muốn hiểu các tật khúc xạ thì trước hết phải biết khúc xạ của mắt bình thường. Con mắt bình thường ở trạng thái nghỉ ngơi, nghĩa là không điều tiết, giống như máy ảnh với buồng tối, vật kính ở trước và phim ảnh ở sau. Một chấm sáng ở vô cực cho một chùm tia sáng song song, sau khi đi qua vật kính, sẽ tạo thành một chùm sáng hội tụ trên bản phim, điểm này rất rõ, đó là ảnh của chấm sáng ở vô cực. Sự tạo ảnh của một vật cũng vậy, ảnh của vật được tạo nên bởi rất nhiều điểm liền nhau trên bản phim. Nhưng nếu chúng ta xê dịch bản phim gần về phía trước, nghĩa là thu ngắn chiều dài trước – sau của máy thì tất cả sẽ thay đổi. Bản phim sẽ không còn nằm ở tiêu điểm của vật kính, mà ở bên trong. Đỉnh của chùm sáng hội tụ nằm ở sau bản phim. Còn ở trên bản phim ta thấy không phải là một điểm rõ mà một quầng sáng mờ. Cũng vậy, một vật ở vô cực sẽ cho một ảnh mờ trên bản phim. Hiện tượng này xảy ra trên con mắt quá ngắn: mắt viễn thị. Ngược lại, ta đẩy bản phim ra phía sau, xa vật kính, nghĩa là tăng chiều dài trước – sau của máy. Sẽ xảy ra hiện tượng gì? Bản phim không ở đúng tiêu điểm của vật kính mà ra sau. Đỉnh của chùm tia hội tụ nằm ở trước bản phim. Còn trên bản phim không phải là một điểm rõ mà là một quầng sáng mờ. Cũng vậy, một vật ở vô cực sẽ cho một ảnh mờ trên bản phim. Hiện tượng này xảy ra trên con mắt quá dài: mắt cận thị. Mắt hoàn toàn giống như máy ảnh mà ta vừa nói trên. Buồng tối đáng lẽ là hình hộp thì là hình cầu, bản phim ở đây là võng mạc, vật kính của mắt gồm giác mạc và thể thủy tinh. 4.1 Viễn thị 4.1.1 Định nghĩa Là sự sai lệch về khúc xạ khiến khi mắt ở trong trạng thái nghỉ ngơi, các tia sáng tới song song vào mắt sẽ hội tụ ở phía sau võng mạc. Muốn thấy rõ, mắt phải điều tiết để đưa ảnh từ sau về đúng trên võng mạc. Ở trẻ em khoảng 3 tuổi, mắt thường bị viễn thị trung bình + 2D. Nhưng, song song với quá trình phát triển của trẻ, trục nhãn cầu cũng dài ra, con mắt có kích thước bình thường và trở thành chính thị vào khoảng 15 tuổi. Bởi vậy, viễn thị cũng là một giai đoạn phát triển của mắt trước khi thành chính thị. Ở một số người thì sự phát triển này ngừng lại, con mắt bị ngắn, đó là nguyên nhân chính của viễn thị, gọi là viễn thị do trục chiếm hơn 90% tổng số viễn thị. Ngoài ra viễn thị còn do những nguyên nhân khác như khi mổ lấy thể thủy tinh bị đục, giác mạc bị dẹt do sẹo, v.v… Những loại này chiếm tỉ lệ ít. 4.1.2 Triệu chứng: Người trẻ bị viễn thị, vì có lực điều tiết tốt, viễn thị không gây nên sự khó chịu nào, nhìn vẫn rất tốt. Khi tuổi lớn dần, lực điều tiết kém đi, nhìn mới thấy khó khăn. Hiện tượng này phụ thuộc vào mức độ viễn thị, viễn thị càng cao thì thị lực càng bị giảm sút nhanh chóng. Những người có độ viễn thị +1D hay +2D chỉ thấy mắt kém vào tuổi gần 40, trong khi người có độ viễn thị lớn hơn thấy mắt kém sớm hơn. Có khá nhiều biểu hiện chủ quan của mắt viễn thị, phổ biến nhất là mỏi mắt. Người viễn thị đầu tiên cảm giác nhìn gần khó khăn, trong khi nhìn xa còn rất tốt. Làm việc lâu bằng mắt sẽ rất mỏi, bắt buộc phải ngưng lại. Sau khi nghỉ ngơi một lát, hết mỏi, làm việc trở lại được và ít lâu sau mỏi mắt lại tái diễn. Viễn thị cũng hay gây ra cảm giác nặng ở trán, đau ở thái dương, đôi khi nhức đầu thực sự, và muốn nhìn rõ, mắt phải cố gắng điều tiết, như vậy thường kèm theo sự co kéo các cơ trán, lông mày và mi, khiến cho mắt người viễn thị có những nếp nhăn tạo nên một dạng riêng gọi là “bộ mặt viễn thị”. Mắt viễn thị luôn luôn có xu hướng quay vào trong, rất “hoạt động” cho ta một cảm giác là đôi mắt rất tinh. Nếu khám sâu vào trong đáy mắt, tuyệt đại đa số không có tổn hại gì, riêng ở gai thị có khi có hình thái như bị viêm, nên được gọi là “viêm gai thị giả của viễn thị”. Các triệu chứng mờ mắt, nhức đầu, thị lực giảm đã làm nhiều người lo sợ nghĩ đến một bệnh cấp diễn và tức thời đi khám mắt. Đó là ý thức rất tốt. Nhưng có trường hợp được chẩn đoán là glôcôm, được theo dõi nhãn áp và làm các xét nghiệm chuyên khoa rất “chu đáo” mà vẫn không xác định được “bệnh”. Có người khác thì được nghĩ tới mờ mắt, nhức đầu là do viêm xoang, suy nhược thần kinh… được chụp xoang, chụp sọ… Dĩ nhiên là tốn thuốc, tốn công vô ích và “bệnh” chỉ khỏi với một cặp kính hội tụ thích hợp. Điều đáng lưu ý là một số không nhỏ mắt viễn thị, khi dùng kính, thị lực không tăng lên tới mức bình thường (10/10) là vì như trên chúng ta đã biết, viễn thị là con mắt phát triển chưa hoàn thiện. Bên cạnh những biểu hiện của mắt viễn thị như chúng tui đã kể ở trên thì hậu quả rất thường gặp là lé, bao giờ cũng là lé trong. Sau hết là bệnh glôcôm rất thường thấy trên những người viễn thị. Người ta đánh giá là do thể mi to, tiền phòng hẹp trong mắt viễn thị là điều kiện thuận lợi để phát sinh bệnh này. 4.1.3 Thử kính mắt viễn thị Bệnh nhân đứng cách xa bảng thị lự...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status