Một số thành lũy tiêu biểu ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử Việt Nam - pdf 17

Download miễn phí Tiểu luận Một số thành lũy tiêu biểu ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử Việt Nam



Thành Hoa Lư thuộc đất xã Trường Yên, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình cũ (hay là Hà Nam Ninh); cách Hà Nội khoảng 10 km về phía tây bắc.
Hệ thống núi đá vôi của huyện Gia Khánh phát triển thành những dải núi hiểm trở bao bọc xung quanh một vùng đất bằng, rộng lớn, ngay bên bờ phía đông nam sông Hoàng Long. Vùng đất này đã được chọn làm khu vực kinh thành Hoa Lư.
Thế đất Hoa Lư tuyệt đẹp. Núi cao bao quanh gần như kín ba mặt tây, nam và đông, tạo nên những bức tường cao vô cùng kiên cố. Phía bắc và phía đông bắc ít núi, lại có con sông Hoàng Long án ngữ như một hào ngoài. Sông Hoàng Long là con sông lớn bắt nguồn từ vùng rừng núi Hòa Bình, Nho Quan chảy ra sông Đáy, lại là con đường giao thông thuận tiện từ kinh thành ra bắc vào nam. Từ Hoa Lư còn có nhiều con đường len lỏi trong vùng, qua những ngách núi cheo leo để đi sâu vào vùng núi hay vào phía nam.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

đầu với những đạo quân “Chinh man” với số lượng áp đảo về mọi mặt thì việc tạo ra cho mình những cứ địa phòng thủ là điều không thể xem nhẹ.
Trên cơ sở đó, cha ông ta đã biết dựa vào những đạo binh lực vô hình từ địa thế tự nhiên của hình sông dáng núi, của cái mà binh pháp thường gọi là “Nơi dễ phòng thủ, khó tấn công”. Tiêu chí đó một khi được kết hợp và hòa quyện với chủ nghĩa anh hùng dân tộc được ăn sâu trong tiềm thức của người lính Việt thì nó thành cảnh giới tối cao của thuật dùng binh. Một người địch muôn kẻ để chế ngự và áp đảo quân thù. Đó là trí tuệ của nghệ thuật quân sự sơ khai mà tinh túy là cái giản đơn mà thiết thực trong quân sự của cha ông ta. Diễn giải quan niệm này ta thấy được cái lợi nhiều mặt ngoài những gì đã nêu ở trên, cách lựa chọn này cũng là sự chọn lựa tối ưu về sự tiết kiệm và biết quý trọng sức dân của những vị minh quân thiên tử của nước Nam. Rõ ràng với số dân ít ỏi kinh tế cùng kiệt yếu lại kinh niên sống trong đao binh của những cuộc rữa hận mà các thế lực chinh phạt phương Bắc reo rắc mà cho xây đắp những thành lũy nguy nga tráng lệ là điều không tưởng. Phỏng điều đó trở thành hiện thực thì vắt kiệt sức dân khi kẻ thù tới đánh họ cũng chẳng còn hơi sức đâu mà chống cự. Bất quá còn tạo ra sự chia rẽ mất lòng dân một điều tử địa trong binh gia.
Vì vậy yếu tố kết hợp điều kiện tự nhiên thuận lợi cho xây dựng công sự phòng thủ là tiêu chí tất yếu để cất thành, đắp lũy.
Một tiêu chí khác cũng không kém phần quan trọng ngoài yếu tố địa hình để các chiến lược gia xưa lựa chọn đó là yếu tố “Nhân hòa” xây dựng công sự thành lũy phải ở khu vực gần dân, phải có dân. Từ xưa, cha ông ta đã biết mối quan hệ khăng khít quân với dân như cá với nước nên xây dựng quân sự không thể nơi không có dân cư. Dân là tai, mắt là nguồn nuôi sống quân đội và là cội nguồn sức mạnh Việt Nam. Xây dựng thành phải ở nơi có sự bổ sung thường xuyên về lương thực và quân số. Tức là sự kết hợp lôgic hai yếu tố quân đội và hậu cần tại chổ. Tạo nên sự vững mạnh cho quân đội từ bên trong. Yếu tô sống còn cho sức mạnh quân sự của bất kỳ đạo quân nào. Huống hồ, nghệ thuật quân sự của cha ông ta là chiên tranh nhân dân của toàn dân đánh giặc.
Nếu chỉ nhìn vấn đề từ hai yếu tố trên thì chưa đủ, để chọn khảnh đất này làm nơi xây thành đắp lũy mảnh đất kia cất đặt bố phòng. Nó còn phải đảm bảo tiêu chí “tính thiêng” của thắng địa, là nơi có nguyên liệu dồi dào, giao thông thuận lợi.
Để đạt tới sức mạnh tối đa con người ta thường hay gữi gắm niềm tin của mình vào một thế lực siêu nhiên nào đó. Trong quân sự điều này cũng không ngoại lệ. Thành Cổ Loa người ta thêu dệt nên “tính thiêng” này bằng việc giúp sức của thần Kim Quy và chiếc móng Rùa Thần, các thành lũy khác cũng có thế lực thần linh bảo trợ để nó trở thành thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm.
Các yếu tố nguyên liệu dồi dào để thuận lợi cho xây dựng và giữ thành. Giao thông thuận lợi là để tác chiến thuật tiện đặc biệt với quân đội ta tư thế thủy quân và bộ binh thì yếu tố này càng trở nên quan trọng. Vận chuyển dễ dàng chi viện thuận lợi khi có chiến tranh và thuận lợi thông thương khi ở thời bình cũng là tiêu chí lựa chọn mỗi khi quyết định địa thế xây dựng thành lũy.
Tóm lại, tiêu chí chọn đất xây dựng thành lũy Việt Nam có thể gói gọn trong bốn chữ đó là: “Địa lợi, nhân hòa”.
CHƯƠNG HAI
MỘT SỐ THÀNH TIÊU BIỂU DO KHẢO CỔ HỌC PHÁT HIỆN
2.1. Thành Cổ Loa
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.
Hiện nay, di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.
2.1.1. Vị trí địa lý và những tiêu chí chọn vị trí
Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Sông Hoàng (tức sông Thiếp) là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu trong hệ thống sông Thái Bình. Về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình.
Qua con sông Hoàng, thuyền bè ngược lên sông Hồng là vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền ra đến biển cả, nếu đến vùng phía Đông Bắc bộ thì qua sông Cầu vào hệ thống sông Thái Bình đến sông Thương và sông Lục Nam.
Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân cư đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.
2.1.2. Vật liệu và kỷ thuật xây dựng
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8-12 m. Chân lũy rộng 20-30 m, mặt lũy rộng 6-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 cm, hòn lớn 60 cm. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dày đặc đã được tạo ra, thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh
2.1.3. Cấu trúc thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ"
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến th...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status